Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tại sao nói : Bỏ mẹ ! Chết mẹ ! Thấy mẹ !

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tại sao nói : Bỏ mẹ ! Chết mẹ ! Thấy mẹ !

    Một người cha miền Bắc cảnh giác con :
    - Rắn ấy độc lắm ,tới gần nó cắn là bỏ mẹ .
    Một người mẹ miền Nam hăm con :
    - Mầy làm bể chậu kiểng phải hông ? Tía mầy dìa là chết mẹ mầy .
    Chồng than thở với vợ :
    - Sáng nay vào sở mới biết bị " laid off " , anh làm bộ thản nhiên nhưng trong bụng buồn thấy mẹ !
    Ta thử giải đáp mấy thành ngữ bỏ mẹ , chết mẹ , thấy mẹ .


    BỎ MẸ
    Ta diễn giải qua truyện một em bé ngày xưa .
    Em mới 3 tháng tuổi , bụ bẫm và kháu khỉnh . Người quen hoặc lạ tới gần làm bộ hỏi chuyện , em đều vui mừng quơ tay chân và nhoẻn miệng cười .
    Một bữa kia em được mẹ cho bú no và nằm ngủ ngon trong võng . Thấy con ngủ đã lâu , linh tính cho mẹ biết có chuyện chẳng lành . Khi rờ tới con , mẹ phát hiện ra con chết từ bao giờ . Thế là mẹ lăn ra gào khóc : " Ơí con ơi , con bỏ mẹ đi đâu ?.."
    Vậy đứa trẻ chết là nó bỏ mẹ nó , từ đó có thành ngữ " chết bỏ mẹ ".
    Để thành ngữ được ngắn gọn người ta bỏ bớt chữ " chết " chỉ còn " bỏ mẹ " . Nhưng thành ngữ " bỏ mẹ " không có nghĩa là chết mà chỉ gợi ý về sự chết .
    Rắn ấy độc lắm , tới gần nó cắn là bỏ mẹ = là chết .
    Bố mẹ thường đi đôi nên cũng có thành ngữ " bỏ bố " . thí dụ :
    -Xe lên tới lưng chừng đèo thì hết xăng , thế có bỏ bố không ! ( thế có chết không ! )

    Bỏ bố và bỏ mẹ chỉ được dùng trong vài trường hợp như sau :
    - Cảnh giác : Thí dụ mẹ mắng con gái " Mày đi làm vẫn tật đủng đỉnh , bây giờ người khôn của khó , người ta sa thải mày để tuyển người khác là bỏ bố mày " .
    - Răn đe :Thí dụ bố hăm dọa con : " Lần sau còn thấy mày hút cần sa là tao đánh bỏ mẹ mày " .
    - Dùng như trạng từ ( adverb ) : Thí dụ " Cuối tuần trời mưa suốt , nằm nhà buồn bỏ mẹ ."
    ( Buồn bỏ mẹ = buồn chết được ). Chết được và bỏ mẹ trong trường hợp này được dùng như trạng từ làm nổi bật tính từ buồn .
    - Dùng như thán từ ( interjection ) : Thí dụ :" Bỏ bố rồi ! Tao bỏ quên kính mát ở tiệm phở ."
    ( Bỏ bố rồi = chết rồi ! ) .
    Cách dùng như thán từ rất đa dạng . Thí dụ : " Tao mời đào đi ăn , khi trả tiền tao rờ tới ví mới biết là bị mất cắp . Thế có bỏ mẹ không ! ".( thế có chết không !) . Một thí dụ khác : em nhỏ chơi dao bị đứt tay , thấy máu em sợ khóc ré lên , mẹ lên tiếng mắng con :" Bỏ mẹ mày chưa ! Đưa tay đây coi ." ( Bỏ mẹ mày chưa =chết chưa ! ) .

    CHẾT MẸ
    Tiếng Việt vào tới miền Nam biến đổi đôi chút .
    Thành ngữ " chết bỏ mẹ " cũng được rút ngắn nhưng người Nam loại bớt chữ " bỏ " giữ lại chữ " chết " thành " chết mẹ " . Nếu phân tích theo ngữ pháp , " bỏ mẹ " có nghĩa khác với " chết mẹ ".
    " Tía mầy dìa là chết mẹ mầy " = mẹ nó muốn nói cha nó sẽ đánh nó chết . Nhưng hiểu đúng ngữ pháp thì mẹ nó chết chứ không phải nó . Tuy nhiên chỉ có người nước ngoài học tiếng Việt mới thắc mắc chứ người Việt dù Nam hay Bắc đều hiểu " chết mẹ " là " chết bỏ mẹ " .
    Tiếng Anh cũng có một cách đặt câu nghịch lý : câu có dạng khẳng định nhưng ý nghĩa lại là phủ định , thí dụ :
    It's too hot to eat = cay lắm không ăn được .


    Đi đôi với " chết mẹ" là " chết cha " . Cũng như " bỏ mẹ / bỏ bố ", ta dùng " chết mẹ / chết cha " để cánh giác , răn đe , hoặc như trạng từ và thán từ .
    - Rắn đó độc lắm , tới gần nó cắn là chết mẹ mầy .
    - Lần sau thấy mầy hút cần sa là tao uýnh chết cha mầy .
    - Cuối tuần trời mưa suốt , nằm nhà buồn chết mẹ .

    - Chết cha ! Tao bỏ quên kiếng mát ở tiệm phở .

    THẤY MẸ
    Người xưa tin rằng chết là về cõi âm , tương phản với cõi dương là cõi ta đang sống . Về cõi âm ta sẽ gặp tiền nhân chết trước ta . Do đó người Bắc dùng thành ngữ " thấy ông bà ông vải " để ám chỉ về cõi âm gặp ông bà . ( ông vải là tổ tiên ) .
    Ta thử tưởng tượng một con sông làm ranh giới giữa cõi dương và cõi âm . Khi em bé chết , nó "bỏ mẹ/bỏ bố " ở bờ sông cõi dương để xuống đò sang cõi âm . Tới bờ sông cõi âm nó " thấy ông bà ông vải " đứng chờ nó .
    Vậy " thấy ông bà ông vải " cũng ngụ ý là chết , thí dụ :
    "Lên cao thấy toàn cảnh có đẹp hơn nhưng leo dốc mệt thấy ông bà ông vải ." ( mệt chết được )


    Tương tự như người Bắc , người Nam dùng thành ngữ " thấy ông nội / thấy bà nội " . Thí dụ :
    " Đêm qua tao đi qua nghĩa địa , sợ thấy bà nội ." ( sợ chết được )
    Người Nam còn có thành ngữ " thấy mẹ " dù mẹ còn sống . Có lẽ ông bà nội chết đã lâu nên thành ngữ "thấy ông nội / thấy bà nội " không " mạnh " bằng " thấy mẹ " , bất kể mẹ còn sống hoặc đã chết . Nếu thay đổi thí dụ trên ta sẽ thấy " hiệu quả " khác nhau :
    "Đêm qua tao đi qua nghã địa sợ thấy mẹ ." (nghe rùng rợn hơn ) .

    Người Trung không cần dùng cõi âm để ám chỉ sự chết . Chỉ cần " thấy mồ tổ " cũng đủ ngụ ý chết . Thí dụ :
    " Đêm khuya nghe tiếng hò trên sông Hương buồn thấy mồ tổ ." ( buồn chết được )
    Có khi thành ngữ này rút ngắn chỉ còn "thấy mồ " . Thí dụ :
    " Tuổi này đi du lịch ngại thấy mồ "

    Tất cả thành ngữ có chữ " thấy " kể trên đều được dùng như trạng từ .


    CHẾT BỎ BU
    Vào thời của Tú Xương người ta dùng thành ngữ " chết bỏ bu " .
    Tú Xương có bài thơ như sau :
    Sơ khảo khoa này có Cử Nhu
    Thật là vừa dốt lại vừa ngu
    Văn chương đâu phải là đơn thuốc
    Chớ có khuyên sằng chết bỏ bu .
    Tất nhiên phải đậu cử nhân ông Nhu mới được gọi là Cử Nhu . Ông không làm quan , chỉ ở nhà làm thày lang .Hẳn ông có uy tín trong giới khoa bảng mới được cử làm giám khảo .
    Khi chấm bài thấy đoạn văn hay , giám khảo dùng bút son khuyên một vòng tròn nhỏ bên đoạn văn ấy .
    Thày lang khi kê đơn thuốc cũng dùng bút son khuyên một vòng tròn nhỏ bên vị thuốc quan trọng .
    Tú Xương lận đận việc thi cử nên cay cú với quan trường . Ông cảnh cáo Cử Nhu đừng lầm văn chương với đơn thuốc ; dùng bút son khuyên bậy bạ là ...chết bỏ bu !


    ST
Working...
X