Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nho Lâm Ngoại Sử - Tác giả: Ngô Kính Tử

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    Hồi 50

    Giả quan viên giữa đường lộ tẩy
    Thật nghĩa khí thay bạn cầu danh.

    Vạn trung thư đang ngồi trong nhà khách của Tần trung thư xem diễn tuồng thì đột nhiên có một ông quan đến, mang theo mấy người lính xích tay Vạn rồi đem đi. Cao Hàn Lâm, Thi ngự sử, Tần trung thư nhìn nhau ngơ ngác không biết nên làm thế nào. Việc diễn tuồng cũng dừng lại. Mọi người im lặng, Thi ngự sử nói với Cao Hàn Lâm:
    - Cụ có đoán biết tại sao ông ta bị bắt không?
    - Việc này thực tôi không hiểu mảy may. Nhưng tôi cho rằng ông huyện Phương như vậy cũng buồn cười thực. Hà tất phải làm thế.
    Tần trung thư cố nén giận nói:
    - Quan huyện xích tay người khách của tôi ngay trong bữa tiệc thực làm cho tôi bẽ mặt quá!
    Cao Hàn Lâm nói:
    - Cụ không nên nói như vậy. Ta ngồi trong nhà, làm sao biết được ông ta làm việc gì? Dẫu sao người bắt cũng là ông ta, chứ không phải tôi. Như vậy thì sợ cái gì.
    Vừa lúc ấy, quản gia vào bẩm:
    - Những người diễn tuồng xin cụ cho biết có nên diễn nữa hay để họ về.
    Tần trung thư nói:
    - Khách của tôi phạm tội chứ người trong nhà tôi không ai phạm tội, tại sao lại không diễn?
    Mọi người ngồi lại xem tuồng. Phượng ngồi một mình ở xa và nhìn mọi người cười nhạt. Tần trung thư liếc mắt thấy hỏi:
    - Ông Phượng, chắc ông có biết chút gì về việc này chứ!
    - Tôi biết làm sao được.
    - Ông không biết, thế làm sao ông lại cười?
    - Tôi cười vì buồn cười cho các vị. Người ta đã bị bắt rồi, lo lắng cũng vô ích. Cứ theo ý tôi, phải sai một người nhà lanh lợi đến huyện dò la tin tức xem thế nào. Trước hết, để biết ông Vạn bị tội gì, thứ hai, để biết các vị có bị liên can hay không.
    Thi ngự sử nói:
    - Đúng lắm, đúng lắm.
    Tần trung thư cũng nói ngay:
    - Đúng lắm, đúng lắm!
    Liền sai một quản gia đến huyện dò la tin tức. Người quản gia ra đi. Bốn người lại ngồi. Những người diễn tuồng lại ra diễn vở “Mời ăn tiệc” rồi đến vở “Tiễn biệt”. Thi ngự sử nói với Cao Hàn Lâm:
    - Chọn hai vở này rõ ràng là không có lợi. Vừa mới “mời ăn tiệc” đã “tiễn biệt” ngay. Thực ra thì chưa mời ăn tiệc mà đã tiễn biệt rồi.
    Lại diễn một vờ “Anh em gặp nhau ở núi Ngũ Đài”. Lúc sắp diễn đến vở “Đuổi theo Hàn Tín” thì người quản gia trở về, y đến trước mặt Tần trung thư nói:
    - Đến cả huyện cũng không ai hiểu gì hết. Con có nhờ ông Tiêu làm thơ lại ở phòng hình luật chép cho cái công văn sức bắt ở đây. Vừa nói, y đưa công văn cho Tần trung thư xem. Mọi người đều đến xem. Chỉ thấy trên tờ giấy viết nguệch ngoạc mấy chữ: “Kỳ tri phủ ở Thái Châu báo về việc tuần phòng ở biển. Trong án của quan Trâu tuần vũ Chiết Giang kiêm đô sát viện, trị tội viên tổng binh Thai Chân là Miêu Nhi Tú có một tên phạm nhân quan trọng là Vạn Lý (tức Vạn Thanh Vân). Vạn Lý đã bị cách chức sinh viên ở phủ. Y dáng người tầm thước, da vàng, râu thưa, bốn mươi chín tuổi đã trốn khỏi phủ chúng tôi. Hiện nay quan tuần vũ ra lệnh bắt, chúng tôi đã phái người đi bắt và thông tri đi các nơi. Bắt được ở đâu đem ngay lên phủ để tra xét, không được chậm trễ. Việc gấp”.
    Lại có một dòng chua thêm vào: “Các quan huyền đều phải để ý việc này”.
    Nguyên do là có sai nhân mang công văn đến huyện. Tri huyện vốn người Chiết Giang, thấy quan tuần vũ tỉnh mình muốn bắt một người phạm tội thì lập tức thân hành mang sai nhân đi bắt chứ cũng không hiểu ông ta phạm tội gì. Cao Hàn Lâm nói:
    - Không những việc bắt hồ đồ mà đến cả lời lẽ ở trong công văn cũng hồ đồ nốt. Ông Vạn nói ông ta làm trung thư, tại sao ở đây lại bảo ông ta bị cách chức sinh viên? Nếu ông ta làm sinh viên bị cách chức thì liên quan gì đến cái án của Miêu tổng binh?
    Tần trung thư nói với Phượng:
    - Ông vừa cười chúng tôi. Bây giờ ông có hiểu tại sao không?
    Phượng đáp:
    - Anh chàng quản gia kia thì nghe ngóng được cái gì! Để tôi đi cho.
    Nói xong đứng dậy ra đi. Tần trung thư nói:
    - Ông nói thực đấy chứ?
    - Tôi nói dối ông làm gì.
    Phượng nói xong, ra đi.
    Phượng đi một mạch đến cửa huyện, thấy hai người lính ở đấy. Hai người này thấy Phượng bảo gì thì làm theo không dám cưỡng lại. Phượng nói với hai người lính dẫn mình đến gặp những người sai nhân từ Chiết Giang đến.
    Hai người lính đưa Phượng đến Tam Quan Đường để gặp. Phượng hỏi những người sai nhân:
    - Các ông ở phủ Thai Châu phái đến phải không?
    - Vâng.
    - Ông Vạn phạm tội gì?
    - Chúng tôi cũng không biết, chỉ thấy quan phủ chúng tôi nói ông ta là một tên phạm nhân nguy hiểm vì vậy đã có công văn gửi đi các tỉnh. Bây giờ ông có dặn điều gì chúng tôi sẽ cố gắng làm.
    - Hiện nay ông ta ở đâu?
    - Quan huyện vừa mới hỏi ông ta. Ông ta cũng không nói rõ ràng. Hiện nay tạm giam ông ta ở ngoài. Ngày mai được công văn trả lời, có lẽ chúng tôi cũng phải về. Ông có muốn gặp ông ta không?
    - Nếu ông ta bị tạm giam ở ngoài, thì tôi có thể đến thăm được. Ngày mai các ông đem công văn đi, thế nào cũng cho tôi được gặp mặt rồi hãy đi.
    Những người sai nhân bằng lòng. Phượng cùng mấy người lính vào chỗ giam Vạn trung thư. Vạn trung thư nói với Phượng:
    - Lần này, tôi thật là oan ức vô cùng. Ông làm ơn nói hộ tôi gửi lời thăm cụ Cao và cụ Tần, không biết sau này còn có thể gặp nhau nữa không?
    Phượng hỏi rất cặn kẽ nhưng Vạn không biết trả lời thế nào. Phượng bèn nghĩ bụng"
    - Muốn biết việc này cho rõ ràng, mình phải đi Chiết Giang mới được!
    Phượng không nói với Vạn việc đó, từ biệt đi ra và nói:
    - Ngày mai tôi sẽ lại thăm.
    Phượng đi một mạch về đến nhà Tần trung thư thì thấy ban tuồng đã về. Thi ngự sử đã về nhà. Chỉ còn Cao Hàn Lâm ngồi ở đấy đợi tin tức. Thấy Phượng trở về, Cao vội vàng hỏi:
    - Công việc như thế nào rồi?
    - Thực là lạ vô cùng! Không những quan phủ không hiểu mà đến cả những người sai nhân ở Chiết Giang cũng không hiểu. Không những những người sai nhân không hiểu mà đến cả bản thân ông Vạn cũng không hiểu nổi! Việc này thực là mập mờ. Tôi phải đi Chiết Giang với ông ta thì mới hiểu rõ được. Tần trung thư nói:
    - Như thế thì thôi! Việc này không liên quan gì đến chúng ta.
    Phượng nói:
    - Tôi đã có chủ ý, ngày mai tôi sẽ đi cùng ông ta. Nếu như vụ án này có gì nguy hiểm tôi sẽ giúp đỡ ông ta, vì cũng là nơi quen biết.
    Cao Hàn Lâm vốn sợ bị liên luỵ đến mình nên cũng giục Phượng đi. Chiều hôm ấy, Cao Hàn Lâm đem đến nhà Phượng mười lạng bạc và nói:
    - Ông nhận số tiền này để làm tiền ăn đường.
    Phượng nhận số tiền.
    Hôm sau vừa ngủ dậy, Phượng đến “Tam Quán đường” để gặp những người sai nhân. Những người sai nhân nói:
    - Ông đến sớm quá!
    Phượng cùng những người sai nhân đến cửa huyện vào phòng lo việc hình gặp người thư lại họ Tiêu giục ông ta làm xong giấy tờ để đưa lên quan huyện phê và làm giấy chọn bốn tên lính để quan cho chữ, đóng dấu. Quan huyện ngồi ở công đường bảo lính lệ hầu ban gọi Vạn đến. Những người sai nhân ở Thái Châu đứng đợi ngoài cửa. Vạn trung thư đầu vẫn đội mũ sa, mình mặc áo thất phẩm. Phương tri huyện sực nhớ:
    “Trong công văn nói ông ta là sinh viên bị cách chức, tại sao lại ăn mặc như vậy?”
    Rồi lại nhìn xem tên và diện mạo, nhưng thấy không có gì sai rồi hỏi tiếp:
    - Anh là sinh viên hay là quan?
    - Tôi vốn là sinh viên ở trường phủ Thai Châu. Năm nay tôi ở kinh đô vì viết chữ đẹp nên được cử làm trung thư. Tôi không bao giờ bị cách chức sinh viên hết.
    - Giấy nhậm chức của ông chưa bao giờ đến Thai Châu cả. Vì ông phạm tội, quan tuần vũ đã cách chức sinh viên của ông cũng chưa biết chừng. Ông là người Chiết Giang, tôi cũng là người Chiết Giang. Tôi cũng không muốn khó dễ với ông làm gì. Việc của ông, ông cứ về xem xét xử thế nào.
    Tri huyện nghĩ bụng: “Khi ông ta về nhà, quan địa phương cho ông ta là sinh viên bị cách chức,
    trị tội như một người thường, nhưng ta với ông ta là người đồng tỉnh, lẽ nào lại không giúp đỡ một chút?".
    Và cầm lấy bút son, tri huyện viết thêm một hàng:
    “Tuổi tác và diện mạo của phạm nhân Vạn Lý thì đúng như trong công văn. Nhưng hắn đội mũ sa, mặc áo thất phẩm, lại nói rằng năm nay ở kinh đô được cử chức làm trung thư. Tôi cho giải hắn về. Bọn sai nhân không được đòi tiền của hắn, cũng không được để hắn trốn thoát”.
    Viết xong tri huyện cho gọi sai nhân Triệu Thăng và những người sai nhân ở Thai Châu dặn:
    - Người này không phải là trộm cướp. Hai anh với một người trong huyện ta dẫn hắn đi là đủ. Trên đường cần phải cẩn thận.
    Ba người sai nhân cầm công văn dẫn Vạn đi ra. Phượng đứng đợi ở ngoài cửa hỏi sai nhân ở phủ:
    - Có phải ông áp giải ông ta đi không? Công việc xong rồi chứ?
    Và chỉ sai nhân ở huyện hỏi:
    - Ông áp giải ông ta đi có phải không? Người sai nhân ở phủ nói:
    - Xong rồi! Ông ta đi áp giải đấy.
    Thấy một người đội mũ sa, mặc áo quần bị xích tay ra khỏi cửa huyện, hai trăm người vây quanh lại xem, người chen không lọt.
    Phượng nói:
    - Ông Triệu! Ông ở đâu?
    Triệu Thăng nói:
    - Tôi ở gần đây thôi.
    Phượng nói:
    - Chúng ta đến nhà ông Triệu đã.
    Mọi người đến nhà Triệu Thăng, vào ngồi trong nhà. Phượng bảo Triệu Thương tháo xích cho Vạn trung thư rồi cởi áo ngoài của mình đưa cho Vạn bảo Vạn cởi áo thất phẩm, mặc áo mình vào. Phượng lại bảo người sai nhân ở Thai Châu về nhà Vạn gọi người quản gia của Vạn lại. Sai nhân đi một lát trở về báo:
    - Những người quản gia đều không về đấy chắc là họ chạy trốn cả rồi! Hành lý của ông Vạn còn ở nhà, nhưng hòa thượng không cho đem đi. Phượng nghe vậy lấy mũ của mình cho Vạn đội, mình chỉ mặc một cái áo chẽn, đội một cái bo tóc(1). Phượng nói:
    - Phòng này chật lắm. Các ông về nhà tôi.
    Ba người sai nhân cùng Vạn đến nhà Phượng ở đường Hồng Vũ. Họ bước vào cửa, đi vào cái nhà khách hai tầng. Vạn trung thư bước vào sụp xuống lạy. Phượng đỡ dậy.
    - Nay không phải lúc làm lễ, ông cứ ngồi.
    Và nói với mấy người sai nhân:
    - Ba ông đều là những người hiểu biết. Cái đó không phải nói nhiều. Các ông cứ ở đây. Ông Vạn là bạn tôi. Chuyến này tôi cũng muốn lên quan với ông ta xem công việc như thế nào. Tôi cũng không làm khó dễ gì với các ông đâu!
    Triệu Thăng hỏi hai người sai nhân kia.
    - Các ông nghĩ thế nào?
    Hai người kia nói:
    - Ông Phượng bảo gì chúng tôi xin làm nấy. Nhưng mong ông làm chong chóng cho.
    - Cố nhiên!
    Và chỉ cho ba người sai nhân cái phòng để không ở trước mặt và nói:
    - Các ông ở tạm đây hai ngày. Ba ông cứ đem hành lý vào đây.
    Ba người sai nhân giao Vạn lại cho Phượng giữ, yên tâm đi lấy hành lý về.
    Phượng kéo Vạn trung thư vào thư phòng ở phía tay trái và hỏi:
    - Ông Vạn! Ông phải cho tôi biết sự thật về việc này. Dẫu có việc gì tay tầy trời tôi cũng vẫn giúp ông. Nhưng nếu ông nói mập mờ thì tôi không giúp đỡ gì được.
    - Trong việc này tôi thấy ông thật là một người hào kiệt. Trước mặt một con người quân tử tôi dám đâu dối trá. Nếu việc này xảy ra ở phủ Thai Châu thì tôi không thua đâu. Nhưng ở đây lại là huyện Giang Ninh.
    - Ông nói gì vậy? Ông huyện Phương ở Giang Ninh đối với ông tử tế lắm chứ?
    - Không giấu gì ông! Tôi chỉ là một anh tú tài không phải là trung thư. Vì trong nhà làm ăn khó khăn, tôi phải đi đây đi đó. Nếu tôi nói rằng tôi chỉ là anh tú tài thì tôi sẽ chết đói, nhưng nếu tôi nói rằng tôi làm trung thư thì những thương nhân và những hương thôn sẽ vui lòng giúp đỡ tôi. Không ngờ hôm nay quan huyện lại viết cả chức tước, áo quần của tôi vào công văn. Lần này đến Thai Châu, về cái án thì tôi không ngại; nhưng tội giả làm quan thì chắc là nặng lắm.
    Phượng trầm ngâm một lát rồi hỏi:
    - Ông Vạn, giờ nếu ông là ông quan thực thì ông có thắng trong việc này không?
    - Tôi có quen với Miêu tổng binh. Tôi không bao giờ ăn hối lộ hay phạm pháp gì cả. Tội tôi nhất định không nặng, miễn là họ không biết cái việc giả mạo làm quan thì tất cả xong xuôi.
    - Ông ngồi đấy! Tôi đã nghĩ ra một kế.
    Vạn trung thư ở lại thư phòng. Ba người sai nhân ở trong cái phòng bên cạnh nhà sảnh. Phượng một mặt sai người làm một bữa tiệc, một mặt đến nhà Tần trung thư.
    Tần trung thư nghe tin Phượng đến nhà, vội vàng chạy ra, không có thì giờ mặc áo ngoài. Tần hỏi:
    - Ông Phượng! Bây giờ công việc như thế nào rồi?
    - Ông không biết gì sao, ông đóng cửa ngồi trong nhà, tai vạ trên trời rơi xuống ông không biết sao?
    Tần trung thư hoảng hốt hỏi:
    - Cái gì? Cái gì?
    - Cái gì với cái gì nữa! Có một việc nó làm ông nửa đời thân oan không xong.
    Tần trung thư mặt xám như chàm đổ, nói không ra tiếng. Phượng nói:
    - Ông nói ông ta làm chức quan gì nào?
    - Ông ta nói ông ta làm trung thư!
    - Sau này, xuống âm phủ ông ta sẽ làm trung thư.
    - Có lẽ nào ông ta lại giả làm trung thư?
    - Giả chứ còn gì nữa! Một người mắc tội nặng, giả làm quan lại bị bắt trong nhà ông. Tuần Vũ Chiết Giang chỉ cần phê một câu ấy thì thực không giấu gì ông, đời của ông sau này cũng như là “con chuột bị gội nước nóng”.
    Tấn trung thư nghe nói vậy cặp mắt trắng dã nhìn Phượng mà rằng:
    - Bây giờ làm thế nào? Ông bảo tôi bây giờ làm thế nào?
    - Không có cách gì khác. Nếu ông làm cho ông ta thắng trong vụ này thì số phận của ông mới khá được.
    - Làm cho ông ta thắng là làm thế nào?
    - Nếu ông ta là ông quan giả thì thua. Trái lại nếu ông ta là ông quan thực thì không thua chứ gì nữa!
    - Bây giờ ông ta đã làm giả rồi, làm sao có thể thành một ông quan thực được.
    - Ông là ông quan giả hay ông quan thực?
    - Tôi được đề cử hẳn hoi theo đúng luật lệ.
    - Ông được đề cử, vậy ông ta cũng có thể được đề cử chứ!
    - Dù có đề cử đi nữa thì cũng chậm mất rồi.
    - Tại sao lại chậm? Có tiền thì làm được quan! Có Thi ngự sử đây thu xếp việc đó chứ sợ gì!
    - Phải mau mau bảo ông ta lo liệu việc ấy.
    - Nếu như ông ta có thể lo liệu được thì ông ta đã chẳng làm ông quan giả làm gì!
    - Theo ý ông nên làm như thế nào?
    - Theo ý tôi nếu như ông không ngại bị liên quan vào việc này thì cứ để mặc ông ta. Còn nếu như ông muốn được yên ổn thì phải lo liệu giúp ông ta. Khi nào được kiện và được làm quan rồi ông ta sẽ trả tiền lại. Bấy giờ sẽ không lo thiếu một đồng, hay ông ta có rút bớt đi vài ba phân thì cũng chẳng hề gì.
    Tần trung thư nghe vậy, thờ dài một cái và nói:
    - Không ngờ lại liên luỵ như thế này. Thôi không có cách gì khác ông Phượng ạ. Tôi sẽ xuất tiền, ông sẽ thu xếp giúp.
    - Việc này có khác gì mò trăng ở dưới nước. Còn phải có cả cụ Cao nữa mới được.
    - Tại sao lại cần đến cụ Cao?
    - Thì ngự sử là bạn thân của cụ Cao. Cụ Cao có thể nhờ ông ta viết ngay một cái giấy đưa vào nội các như thế thì mới được chứ.
    - Ông Phượng! Ông quả là con người biết việc!
    Tần lập tức viết một cái thiếp mời cụ Cao đến bàn. Một lát sau Cao Hàn Lâm đến. Tần trung thư đem chuyện của Phượng nói lại một lượt. Cao Hàn Lâm vội vàng nói:
    - Tôi sẽ lo liệu việc ấy!
    Phượng đứng bên cạnh nói:
    - Việc này rất gấp xin cụ lo liệu cho. Ông Tần trung thư mau mau đem khoản tiền để cho cụ Cao lo liệu.
    Tần liền vào nhà một lát sau, người quản gia đưa ra mười hai gói bạc, mỗi gói một trăm lạng, giao tất cả cho Cao Hàn Lâm, Tần nói:
    - Cái này một nửa trang trải nha môn, một nửa là lễ vật. Tôi xuất tiền để cung vào việc tiêu dùng trong nội các. Ông là bà con với Thi ngự sử, có việc gì nhờ giúp hộ.
    Cao Hàn Lâm lúng túng không biết nói sao đành phải ưng thuận. Y cầm số tiền đến nhà Thi ngự sử giục Thi ngự sử ngay đêm hôm đó phái người lên kinh lo liệu.
    Phượng về nhà đi thẳng vào thư phòng thấy Vạn trung thư đang ngồi trên ghế chờ đợi. Phượng nói:
    - Xin chúc mừng ông, việc như thế là được đấy.
    Bèn kể lại mọi việc rất tỉ mỉ. Vạn nhảy xuống đất lạy Phượng lia lịa hai ba mươi lạy, Phượng phải khó khăn lắm mới kéo dậy được. Phượng nói:
    - Ngày mai ông cứ mặc áo quan của ông đến nhà hai vị kia mà tạ ơn.
    - Như thế là phải, nhưng tôi thấy thế nào ấy!
    Sai nhân vào hỏi Phượng bao giờ thì có thể đi. Phượng nói:
    - Ngày mai chưa đi được, hãy đợi đến ngày kia.
    Hôm sau, Phượng dẫn Vạn đến cám ơn Cao và Tần. Hai người nhận danh thiếp của Vạn nhưng đều nói không ở nhà. Khi Vạn trở về, Phượng lại bảo Vạn đến chùa Báo Ân lấy hành lý. Hôm sau Phượng cũng thu xếp hành lý và cùng với những người sai nhân đưa Vạn đến phủ Thai Châu tỉnh Chiết Giang. Chỉ nhân phen này khiến cho:
    Nho sinh lận đận, hóa nên áo gấm về làng,
    Ngự sử rủ lòng, chỉ sợ một người oan khuất.
    Muốn biết việc sau thế nào hãy xem phần sau phân giải.
    -----------
    (1) Bao tóc: cái lưới úp trên đầu cho tốc khỏi rối trước khi đội mũ.


    hết: Hồi 50, xem tiếp: Hồi 51
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #47
      Hồi 51

      Gái điếm lừa người phụ trăng gió
      Tráng sĩ cao hứng thử quan hình

      Sau khi đã thu xếp cho Vạn thành một người trung thư thực sự, Phượng cũng thu xếp hành lý của mình cùng ba người sai nhân đưa Vạn đến Thai Châu để cho quan tra xét. Bấy giờ là lúc đầu tháng tư, khí trời ấm áp, cả năm người đều mặc áo đơn đi ra cửa Hán Tây gọi thuyền đi thẳng đến Chiết Giang. Họ gọi mãi cũng không có một chiếc thuyền nào đi Hàng Châu, nên phải thuê một chiếc thuyền đi Tô Châu. Đến Tô Châu, Phượng trả tiền rồi thuê thuyền đi Hàng Châu. Thuyền này to gấp rưỡi thuyền đi từ Nam Kinh lên. Phượng nói:
      - Chúng ta không cần một thuyền lớn làm gì, chỉ cần hai khoang mà thôi.
      Phượng trả một lạng tám đồng tiền ở bến để thuê một khoang giữa và một khoang đầu thuyền. Sau đó, năm người xuống thuyền đi Tô Châu. Đợi một ngày, mới có một người buôn tơ ngồi ở khoang trước. Người này trạc độ hai mươi, dáng người rất xinh đẹp, chỉ có một gánh hành lý nhưng rất nặng. Đến chiều chủ thuyền cho thuyền đỗ và cắm sào ở một cái bến cách làng độ năm dặm. Người lái thuyền nói với những người chèo thuyền.
      - Cắm thuyền cho chắc, thả hai cái neo xuống, chăm sóc các vị hành khách còn tôi đi về nhà một lát.
      Những người sai nhân ở Thái Châu cười và nói:
      - Chúc ông đi thuận đường xuôi gió nhé!
      Người lái thuyền cười khanh khách rồi đi.
      Vạn và Phượng lên bờ đi bách bộ. Xa xa thấy khói chiều tan dần, ánh trăng chiếu sáng trên mặt nước. Hai người dạo chơi một lát lại lên thuyền nằm ngủ. Họ nghe tiếng nước bì bõm, có một chiếc thuyền con chèo ngược dòng sông đến chỗ bên cạnh. Lúc bấy giờ, những người chèo thuyền đã đắp chăn ngủ kỹ còn ba người sai nhân thắp đèn đánh bài, Vạn trung thư, Phượng và người buôn tơ mở cửa sổ ngắm trăng. Trong chiếc thuyền con có một người trạc độ bốn mươi tuổi, gầy gò, đang cầm sào. Đằng sau là một người con gái mười tám, mười chín tuổi, đứng bẻ lái. Nhìn thấy ba người đàn ông đang ngắm trăng, cô ta nấp vào khoang sau. Được một lát, Phượng và Vạn đều đi ngủ chỉ còn khách bán tơ chưa ngủ.
      Hôm sau lúc mặt trời chưa mọc, người lái thuyền trở về với một cái bị trên vai. Thuyền lập tức buông chèo.
      Thuyền đi được ba mươi dặm mới ăn sáng. Ăn sáng xong, Phượng ngồi trong khoang nói chuyện với Vạn trung thư:
      - Tôi cho rằng lần này ông không đáng sợ lắm. Nhưng một cái án làm theo lệnh quan tuần vũ thì cũng khá gay go. Theo như ý tôi, khi người ta hỏi, ông cứ nói là do một người du khách ở trong nhà là Phượng Minh Kỳ làm. Khi họ bắt tôi, tôi sẽ có cách xử trí.
      Vừa lúc ấy thì người bán tơ, cặp mắt đỏ gay ra trước thuyền đứng khóc. Phượng và mọi người liền hỏi:
      - Ông khách! Ông có việc gì thế?
      Người kia không đáp, Phượng đột nhiên nhớ ra, chỉ vào người khách bán tơ mà nói:
      - Tôi biết rồi. Ông mắc mưu chứ gì, trẻ người non dạ như ông...
      Người khách cảm thấy xấu hổ lại càng khóc. Phượng hỏi căn vặn thì biết ra người khách đêm qua lúc mọi người đều ngủ cả có thò cổ ra ngoài cửa sổ để nhìn người con gái ở thuyền bên kia. Khi thấy hai người khách trong thuyền đã đi ngủ, người con gái cũng ra khỏi khoang thuyền và cười với anh ta. Người khách bán tơ khẽ thò tay sang. Người con gái cười khì khì, trèo qua cửa sổ sang ngủ với người khách. Khi người khách đã ngủ say, người con gái mở hành lý lấy trộm bốn gói bạc có tất cả là hai trăm lạng rồi mang đi. Sáng dậy, thuyền nhổ sào đi, người khách vẫn còn đang mê man. Một lát sau, thấy hành lý bị người ta mở tung, anh ta mới biết mình bị mất cắp. Bấy giờ anh ta như người câm nằm mê gặp mẹ, không biết nói năng thế nào, Phượng trầm ngâm một lát, hỏi chủ thuyền:
      - Ông có nhận ra được chiếc thuyền nhỏ đến đây hôm qua không?
      - Nhận thì nhận được, nhưng kiện lên quan thì không kiện được đâu vì không có bằng chứng gì hết.
      Phượng nói:
      - Nhận được là tốt rồi! Hôm qua hắn lấy trộm được tiền thì hôm nay nhất định hắn đi ngược chiều với chúng ta. Các anh cuốn buồm đi, lắp chèo vào rồi chèo quay trở lại xem. Khi nào thấy được thuyền kia thì chúng ta đỗ ở nẻo xa. Nếu lấy được tiền rồi, chúng tôi sẽ thưởng cho các anh.
      Những người chèo thuyền bằng lòng quay trở lại. Chèo đến chiều mới đến chỗ cắm sào tối qua, nhưng vẫn không thấy chiếc thuyền kia đâu cả. Phượng bảo cứ chèo nữa.
      Chèo được hai dặm nữa, thấy chiếc thuyền con kia buộc dưới cây liễu. Đứng xa nhìn không thấy người. Phượng bảo chèo thuyền đến gần cắm sào dưới một cây liễu khác, bảo mọi người nằm không được nói năng gì, còn mình thì đi bộ lên bờ dạo chơi đến trước chiếc thuyền con. Quả nhiên thấy đúng là chiếc thuyền hôm qua. Người con gái và người đàn ông gầy đang nói chuyện với nhau ở trong thuyền. Phượng đi chơi một lát rồi quay trở lại thì thấy chiếc thuyền con kia lại đến đỗ bên cạnh thuyền mình và người gầy gò kia không thấy đâu nữa. Đêm ấy, ánh trăng sáng hơn đêm trước. Người con gái đang buông mớ tóc đen láy ngồi một mình, chải tóc ngắm trăng. Phượng hỏi nhỏ:
      - Đêm yên tĩnh thế này cô em ngồi trên thuyền một mình không sợ sao?
      Người con gái đáp:
      - Anh hỏi tôi làm gì? Tôi ngồi như thế này quen rồi, sợ cái gì?
      Vừa nói vừa đưa mắt nguýt một cái. Phượng nhảy sang thuyền kia ôm lấy người con gái. Người con gái giả vờ đẩy ra, nhưng không kêu. Phượng bế người con gái để lên đùi. Người con gái ngồi yên, thu mình vào trong lòng. Phượng nói:
      - Thuyền này không có ai, đêm nay em hãy tiếp anh một đêm, chúng ta gặp gỡ là do duyên trời.
      - Em là người ở trên thuyền xưa nay không hề bậy bạ với ai. Đêm nay, không ngờ lại gặp anh phải gió này, em biết làm thế nào? Anh ở đây, em không sang đâu!
      - Trong hành lý của anh ở bên kia thuyền có tiền, anh không yên tâm ở thuyền em. Vừa nói, Phượng vừa nhấc bổng người con gái qua thuyền mình.
      Lúc bấy giờ những người trên thuyền đều giả ngủ, chỉ có một đĩa đèn dầu leo lét và một cái chăn đơn, Phượng đặt người con gái xuống đệm, người con gái cởi quần áo nằm vào trong chăn. Nhưng lạ thay người con gái thấy Phượng không cởi quần áo mà tai lại nghe tiếng chèo khoát nước. Người đàn gái ngẩng đầu lên nhìn nhưng Phượng đã lấy đùi ấn xuống nằm chết cứng không dậy được. Cô ta lắng tai nghe biết chiếc thuyền đang đi, bèn hoảng hốt nói:
      - Tại sao chiếc thuyền lại đi?
      - Thuyền đi mặc kệ nó, em cứ ngủ cho sướng!
      Người con gái càng hoảng hốt nói:
      - Thả cho tôi về!
      - Đồ ngốc, mày lừa người ta lấy tiền thì tao cũng lừa người ta cướp vợ. Cũng là hạng lường gạt thì mày còn sợ cái gì!
      Người con gái biết rằng mình bị mắc mưu, chỉ còn cách kêu xin:
      - Ông thả cho tôi đi, số tiền kia tôi xin trả lại ông.
      - Để cho mày đi sao được! Mày có đưa tiền đến đây thì tao mới thả về, tao không làm gì mày đâu.
      Người con gái đứng dậy thì cả áo quần cũng không còn nữa. Vạn trung thư và người khách bán tơ trong khoang thuyền nhìn thấy thế, nhịn cười không được.
      Phượng hỏi nhà ở của người con gái và tên của người chồng rồi bảo chủ thuyền cắm thuyền ở một nơi vắng vẻ. Sáng hôm sau, Phượng bảo người khách buôn tơ mang quần áo người con gái đi hơn mười dặm đường, đến tìm người chồng. Người chồng thấy thuyền đi đâu mất, vợ cũng biến đi đâu, đang ngồi lo lắng dưới gốc liễu. Người buôn tơ nhận ra liền đến vỗ vai mà rằng:
      - Chuyến này thì anh xôi hỏng bỏng không rồi. Cái đó là do trời trả nợ đấy.
      Người chồng không dám nói năng gì.
      Người khách mở gói lấy áo quần đồ lót và giày của vợ y ra. Tên kia hoảng sợ chỉ còn cách sụp lạy. Người khách nói:
      - Tao không bắt mày đâu! Mày phải mau mau đem bốn gói bạc trả cho tao rồi tao trả vợ cho mày.
      Người chồng vội vàng xuống thuyền lật miếng ván ở đầu lái lấy ra một cái bị lớn và nói:
      - Số tiền này tôi chưa động đến một ly nào, mong ông làm ơn trả vợ lại cho tôi!
      Người buôn tơ mang bạc về, người chồng mang theo quần áo của vợ đến nhưng không dám lên thuyền. Nghe tiếng vợ ở dưới thuyền gọi hắn mới liều mạng bước xuống. Thì thấy vợ mình cuốn chăn đang nằm tròn ở khoang giữa. Người chồng đến đưa áo quần cho vợ. Sau khi mặc áo quần xong hắn ra lạy mỗi người hai lạy lùi lũi lên bờ. Người buôn tơ biếu Phượng một gói năm mươi lạng bạc để cảm ơn. Phượng suy nghĩ một lát rồi nhận, chia làm ba phần cho ba người sai nhân và nói:
      - Trong việc này các anh cũng khó nhọc, biếu các anh ít tiền.
      Những người sai nhân cảm tạ.
      Chẳng bao lâu, thuyền đến Hàng Châu. Mọi người lại đổi thuyền đi thẳng đến Thái Châu. Cả năm người đều vào thành. Người sai nhân ở Thai Châu nói:
      - Ông Phượng! Việc này sợ có tai tiếng, nếu quan phủ biết thì con làm thế nào?
      Phượng nói:
      - Cứ để mặc tôi!
      Phượng thuê bốn cái kiệu nhỏ buông rèm xuống, bảo ba người sai nhân và Vạn lên kiệu, còn mình thì đi chậm theo sau. Đến nhà Vạn, mọi người bước vào cửa lớn. Thấy cái nhà trước có hai cửa, ở sau là cái nhà khách chữa đi chữa lại đã hai ba lần. Vạn trung thư vừa mới bước vào nhà thì thấy có tiếng khóc. Một lát sau không có tiếng khóc nữa. Ở trong đang sửa soạn làm cơm. Ăn cơm xong, Phượng nói:
      - Các ông hãy khoan đi bây giờ, tôi thắp đèn đã rồi đến báo với người thơ lại lo việc này, tôi đã có cách nói với ông ta.
      Những người sai nhân vâng lời. Thắp đèn xong, họ trở về nha môn phủ Thai Châu nói với người thơ lại Triệu Cần. Triệu Cần nghe nói ông Phượng ở Nam Kinh cùng đến với họ, giật mình nói:
      - Ông Phượng là một người hào kiệt. Chuyến này ông Vạn cùng đi với ông ta thực là tốt phúc!
      Và cùng sai nhân đến ngay nhà Vạn. Triệu gặp Vạn, hai người coi nhau như bạn cũ. Phượng nói:
      - Ông Triệu, tôi chỉ nhờ ông việc này, ông thu xếp thế nào để khi biên cung, người bị khai ra sẽ được giải đi ngay.
      Triệu thư biện nhận lời.
      Hôm sau, Vạn trung thư đi kiệu đến miếu Thành Hoàng ở nha môn. Ông ta vẫn mặc áo thất phẩm, đội mũ sa, đi giày nhưng ở cổ có một dây xích. Những người sai nhân đưa giấy vào. Kỳ tri phủ lập tức ra công đường. Triệu Thăng đưa công văn lên, đem giải Vạn trung thư ra trước mặt. Kỳ tri phủ thấy Vạn trung thư đội mũ tròn, giật mình, lại nhìn thấy công văn phê nói Vạn “làm trung thư” lại càng kinh ngạc. Tri phủ đưa mắt nhìn thấy Vạn vẫn đứng không chịu quỳ, bèn hỏi:
      - Ông được làm trung thư bao giờ?
      - Tháng giêng năm nay.
      - Tại sao tôi không thấy chiếu chỉ?
      - Chiếu chỉ ở trong nội các đưa ra, rồi từ nội các đến tuần vũ cũng phải mất một thời gian. Nhưng có lẽ bây giờ chiếu chỉ đã đến rồi.
      - Như vậy sớm muộn ông cũng bị cất chức!
      - Năm ngoái tôi đi Bắc Kinh, năm nay tôi về Nam Kinh, tôi có làm điều gì phạm pháp đâu. Tôi xin hỏi quan.
      Tại sao quan lại cho người đi bắt tôi ở trong tỉnh khác về? Phải có lý do gì chứ!
      - Miêu đô đốc không lo việc đề phòng bờ biển bị quan tuần vũ bắt. Ở trong nha môn ông ta có một bài thơ của ông. Đó là một bài thơ chúc tụng, lời lẽ xu nịnh. Hắn cho ông tiền để làm. Số tiền bao nhiêu ở đây có chứng cớ. Ông còn chối nữa đi!
      - Đó là điều hết sức oan uổng. Khi tôi ở nhà tôi không bao giờ thấy mặt Miêu đô đốc như thế thì làm sao lại có thơ tặng ông ta được!
      - Chính mắt tôi trông thấy. Đó là một bài thơ trường thiên dài dằng dặc, có đóng dấu của ông. Hiện nay quan tuần vũ đi trấn ở bờ biển. Quan tuần vũ đang dừng ở đây để xét cho xong vụ án này. Ông cứ chối nữa đi!
      - Mặc dầu tôi là học trò nhưng tôi không biết làm thơ, còn như dấu và tên hiệu thì tôi không có. Ở nhà tôi có một người khách khắc cho mấy con dấu lớn, nhỏ. Tôi để nó trong thư phòng không cất đi. Có lẽ anh ta làm thơ rồi đóng dấu của tôi xin cụ xét cho. - Tên anh ta là gì? Bây giờ ở đâu?
      - Tên anh ta là Phượng Minh Kỳ hiện nay ở nhà tôi.
      Kỳ tri phủ lập tức cấp một cái thẻ hỏa tốc cho sai nhân đi bắt Phượng Minh Kỳ, đem đến hỏi.
      Sai nhân đi một lát dẫn Phượng Minh Kỳ về. Kỳ tri phủ ngồi ở công đường, sai nhân vào bẩm:
      - Phượng Minh Kỳ đã đến.
      Tri phủ sai gọi đến hỏi:
      - Anh có phải là Phượng Minh Kỳ không? Anh xưa nay có bạn bè gì với Miêu đô đốc không?
      - Tôi không bao giờ gặp ông ta cả.
      - Vạn Lý có viết tặng ông ta một bài thơ. Hôm nay tra hỏi thì Vạn Lý nói anh đã viết bài thơ ấy và đóng dấu của ông ta vào đấy, dấu kia do tay anh khắc. Tại sao anh lại làm việc phạm pháp như vậy?
      - Không những trong đời tôi không làm thơ bao giờ, mà ngay tôi có làm thơ tặng người khác thì đó cũng không phải là việc phạm pháp.
      - Thằng kia mày dám ăn nói thế à!
      Tri phủ ra lệnh đánh. Bọn lính ở trên công đường và ở ngoài sân dạ vang một loạt, vào công đường. Hai người vật Phượng xuống đất và kẹp chặt lấy chân. Kỳ thái thú nói:
      - Bay cứ kẹp thật chặt cho tao!
      Người lính cố hết sức buộc dây thừng thật chặt thì chỉ nghe rắc một tiếng cái kẹp gãy làm sáu mảnh. Kỳ thái thú nói:
      - Hay là cái thằng kia có pháp thuật gì!
      Bèn ra lệnh lấy một cái kẹp thật mới, lấy dấu son đóng lên rồi bảo kẹp ngay vào chân của Phượng. Nhưng dây thừng chưa buộc chặt thì đánh rắc một cái, kẹp lại gãy. Làm liền ba lần như vậy chỉ thấy kẹp gãy thành mười tám mảnh. Phượng chỉ mỉm cười không nói một câu. Kỳ tri phủ hoảng sợ rời khỏi công đường bắt giam phạm nhân, còn mình thì lên kiệu, đến công quán bẩm với tuần vũ. Tuần vũ nghe nói biết Phượng Minh Kỳ vốn là người tráng sĩ, trong việc này chắc có duyên cớ. Vả chăng Miêu đô đốc đã chết trong ngục, chiếu chỉ cử Vạn Lý làm trung thư đã đến, việc Vạn phạm tội không lấy gì làm nặng cho nên tuần vũ bảo tri phủ khoan thứ. Vạn và Phượng đều được tha. Tuần vũ trở về Hàng Châu. Vụ án này thực là như lửa cháy ngùn ngụt chỉ một gáo nước lạnh của Phượng dội vào là tắt hết. Khi vụ kiện xong, Vạn trung thư cho những người sai nhân về, Vạn cùng Phượng về nhà, miệng luôn luôn nói cảm ơn;
      - Ông thực là cha mẹ cứu sống tôi lại! Tôi biết lấy gì báo đáp.
      Phượng cười mà rằng:
      - Tôi với ông không phải là chỗ quen cũ, tôi cũng không chịu ân huệ gì của ông. Đó chẳng qua là một việc cao hứng ngẫu nhiên. Nếu ông cứ nói chuyện cảm ơn mãi tôi thấy nó cũng tầm thường quá. Bây giờ tôi phải đi Hàng Châu tìm một người bạn. Đến mai là phải đi rồi!
      Vạn trung thư hai ba lần giữ lại, Phượng vẫn cứ đòi đi. Hôm sau Phượng từ biệt Vạn, không hề uống một cốc nước tạ ơn, lên đường đi một mình đến Hàng Châu.
      Chỉ nhân phen này khiến cho:
      Kẻ nghĩa sĩ lay thành cử vạc(1) lại tỏ thần thông;
      Bọn gian đồ chước đối mưu sâu, kíp đền nợ cũ.
      Muốn biết Phượng tìm ai, hãy xem hồi sau phân giải.
      ----------------------
      (1) Sức mạnh chuyển núi, lay thành cất được cái vạc; nói sức mạnh phi thường.


      hết: Hồi 51, xem tiếp: Hồi 52
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #48
        Hồi 52

        Đấu võ thử công tử bị thương
        Phá nhà chơi anh hùng đòi nợ

        Phượng từ biệt Vạn trung thư đi Hàng Châu. Ở Hàng Châu Phượng có một người bạn là Trần Chính Công trước đây có vay Phượng mấy mươi lạng bạc. Phượng nghĩ bụng.
        - Ta phải đến thăm ông ta đồng thời lấy tiền ăn đường để về nhà.
        Trần Chính Công ở ngoài cửa Tiền Đường, Phượng đi đến đó tìm. Mới đi được một quãng thì thấy trên bờ đê Tô Đông Pha có một nhóm người đang vây xung quanh hai người tập cưỡi ngựa ở dưới bóng liễu. Một người nhận ra Phượng vội kêu lớn:
        - Anh Phượng! Anh ở đâu đến đây?
        Phượng đến gần để nhìn, người kia nhảy xuống ngựa nắm lấy tay Phượng. Phượng nói:
        - Tưởng ai hóa ra anh Tần Nhị! Anh đến đây bao giờ? Anh làm gì ở đây?
        Tần Nhị nói:
        - Anh ra đi đã lâu, việc ông Vạn liên quan gì đến anh? Công đâu “ăn cơm nhà vác ngà voi”, như thế có phải là điên không? Được anh đến đây đúng lúc quá, tôi và Hồ công tử vừa nhắc đến anh. Phượng hỏi:
        - Vị này là ai?
        Tần Nhị nói:
        - Vị này là Hồ công tử, con thứ tám của Hồ thượng thư ở địa phương đây, một người rất vui tính lại là bạn rất thân của tôi.
        Khi Hồ công tử biết là Phượng, hai bên đều nói mình bấy lâu khao khát được gặp nhau. Tần Nhị nói:
        - Nay có ông Phượng đến đây, chúng ta không đi ngựa nữa, hãy trở về nhà uống một chén rượu đi.
        Phượng nói: - Tôi phải đi thăm một người bạn. Hồ công tử nói:
        - Ngày mai ông đi thăm bạn cũng được. Hôm nay may mắn chúng ta được gặp nhau, chúng ta hãy đến nhà anh Tần chơi.
        Và Phượng nói thế nào họ cũng mặc, cứ kéo đi, bảo người nhà đem đến cho Phượng một con ngựa. Đến trước đền thờ Ngũ Tử Tư, họ xuống ngựa cùng vào.
        Tần Nhị ở tại tầng dưới về phía sau lầu. Phượng vào nhà thi lễ rồi ngồi xuống. Tần bảo người nhà mau mau dọn cơm rượu. Tần Nhị nói với Hồ công tử:
        - Hôm nay may mắn có anh Phượng đến, ngày mai anh sẽ thấy tài võ nghệ của anh ta. Hôm khác tôi và anh Phượng sẽ đến nhà anh và sẽ còn làm phiền anh nhiều.
        Hồ công tử nói:
        - Cố nhiên!
        Phượng chỉ câu đối trên tường nói với hai người:
        - Tôi biết ông Hồng Hám Tiên. Có một thời gian ông ta cũng thích học võ nghệ. Về sau không hiểu sao, ông ta học pháp luật và cứ lừa người ta về việc luyện đan. Không hiểu bây giờ ông ta còn sống nữa không?
        Hồ công tử nói:
        - Nói ra cũng buồn cười. Anh Ba tôi suýt nữa cũng bị lừa một vố. Năm ấy ông Hồng kéo ông Mã Thuần Thượng ở Xử Châu và bày cho anh tôi luyện đan. Anh tôi đã đem bạc gói sẵn cả. Cũng may số anh tôi còn đỏ, đột nhiên ông Hồng mắc bệnh, được vài ngày thì chết. Nếu không thì rõ ràng bị ông ta lừa!
        Phượng nói:
        - Có phải ông Ba tên là Thận không?
        - Đúng đáy, anh tôi và tôi tính tình khác nhau. Anh tôi ham chơi với một bọn không ra gì, lo làm thơ và tự xưng là danh sĩ. Thực ra, anh ta không dám uống một cân rượu ngon hay ăn một cân thịt ngon, nhưng bị người ta lừa mất hàng ngàn, hàng trăm lạng bạc mà cũng không tỉnh ngộ. Trái lại, tính tôi thì thích nuôi ngựa. Anh tôi sinh chuyện nói rằng ngựa hay vào phá sân, tôi chịu không được, cho anh tôi cái nhà cũ rồi dời đi ở chỗ khác. Thế là hai người đoạn tuyệt với nhau.
        Tần nói: - Chỗ ở mới của anh Hồ rất là sạch sẽ, khi nào anh Phượng đến với tôi sẽ thấy.
        Đang lúc nói chuyện thì rượu bưng lên. Ba người rót rượu mời nhau. Rượu đã ngà ngà say, Tần Nhị nói:
        - Anh Phượng! Anh vừa nói đi tìm người bạn. Vậy anh đi tìm người nào?
        - Tôi có một người bạn là Trần Chính Công người ở đây. Anh ta nợ tôi mấy lạng bạc, tôi đến đấy để lấy.
        Hồ nói:
        - Có phải ông ta trước ở ngõ Trúc Can, nay đã dời đến cửa Tiền Đường phải không?
        Phượng nói:
        - Đúng đấy.
        Hồ nói:
        - Hiện nay ông ta không ở nhà. Ông ta đã đi Nam Kinh bán tơ với Mao Nhị rồi. Mao Nhị là người khách trong nhà anh Ba tôi. Anh Phượng! Anh không cần đi tìm ông ta làm gì. Tôi sẽ cho người nhà đem thư đến nhà ông ta bảo khi nào ông ta trở về sẽ đến đây.
        Cơm xong, mọi người ra về. Hồ cáo từ về trước. Tần Nhị giữ Phượng ở lại. Hôm sau, Tần Nhị đem Phượng đến thăm Hồ công tử. Hồ công tử lại đến nhà đáp lễ và cho người nhà đến mời.
        - Ngày mai mời ông Tần và ông Phượng qua nhà ăn cơm xoàng. Ông chủ tôi nói vì chỗ thân nên không viết thiếp.
        Hôm sau, ăn sáng xong, Tần bảo người nhà chuẩn bị hai con ngựa cùng Phượng đến nhà Hồ công tử. Người nhà đi theo sau. Chủ nhà ra tiếp mời vào sảnh ngồi. Tần hỏi:
        - Tại sao chúng ta không vào thư phòng mà ngồi?
        - Chúng ta hãy dùng trà đã.
        Uống trà xong, Hồ công tử mời hai người đi theo một con đường ra phía sau, đường đầy cả phân ngựa. Đến thư phòng, thấy có mấy người khách đều là những người bạn thường ngày cưỡi ngựa và đánh kiếm với Hồ công tử. Hôm nay, tất cả đều đến đây để xem võ nghệ của Phượng. Mọi người vái chào nhau rồi ngồi xuống, Hồ nói:
        - Những người này đều là bạn thân của tôi. Nghe nói hôm nay có ông Phượng đến, nên họ đều đến đây để được dạy bảo.
        Phượng nói:
        - Đâu dám thế.
        Uống trà xong, mọi người đều đứng dậy đi dạo chơi. Ba gian lầu của Hồ công tử không lớn lắm. Ở bên cạnh nhà có hành lang, trên hành lang bày nhiều yên ngựa, ở trên tường lại có mấy cái bao đựng tên. Sau khi đi qua cái cửa tròn, mọi người đến một cái sân rộng rồi đến một cái chuồng ngựa. Hồ công tử nói với Tần Nhị:
        - Anh Tần! Tôi mới mua một con ngựa vóc dạc cũng khá, anh xem thử nó đáng giá bao nhiêu.
        Bèn sai người chăn ngựa dắt ngựa ra. Những người khách xúm lại xem. Con ngựa này hết sức dữ tợn. Thấy mọi người không đề phòng, nó đá một cái làm một người khách trẻ ngã lăn ra đất đau đớn vô cùng.
        Hồ công tử nổi giận tiến đến đá một cái vào đúng chân con ngựa, chân con ngựa gãy gục xuống. Mọi người kinh sợ.
        Tần Nhị nói:
        - Hay quá, mấy lâu nay tôi không gặp anh, không ngờ võ nghệ của anh nay đã cao cường như vậy.
        Người khách bị thương được đưa về nhà. Tiệc rượu lại bày ra. Chủ và khách, bảy tám người uống những chén to, ăn những đĩa lớn rất là vui vẻ. Ăn tiệc xong Tần Nhị nói:
        Anh Phượng, anh phải trổ một vài món võ để mọi người xem chứ!
        Mọi người đều nói:
        - Chúng tôi muốn xem lắm.
        Phượng nói:
        - Tôi cũng xin làm trò cười để anh em xem cho vui.
        Và chỉ vào một cái bồn hoa cao ở sân trong nói:
        - Đem mấy viên gạch vuông đầu kia lại đây.
        Tần Nhị bảo người nhà đem tám viên gạch đến. Phượng thong thả xắn ống tay phải. Tám viên gạch vuông chồng lên nhau ở trên thềm làm thành một chồng cao hơn một thước. Phượng lấy tay đấm một cái. Cả tám viên gạch đều vỡ tan thành mười mấy mảnh không sót viên nào. Mọi người đều tán thưởng. Tần Nhị nói:
        - Ông Phượng của chúng ta đã luyện được môn này. Trong sách của ông học nói “Nắm tay lại có thể đập nát đầu con hổ, mở tay ra có thể chặt đứt đầu con bò”. Nhưng đó chưa phải là cái tài giỏi nhất của ông. Anh Hồ! Anh vừa lấy chân đá gãy chân ngựa. Như vậy chân anh cứng lắm. Nếu anh dám đá vào dái ông Phượng thì tôi mới thực phục anh là người tài giỏi.
        Mọi người đều cười mà nói rằng:
        - Làm như thế sao được!
        Phượng nói:
        - Anh Hồ! Nếu anh muốn thử thì anh cứ tự nhiên. Nếu tôi có bị thương thì tôi cũng không trách anh đâu, tôi chỉ trách anh Tần mà thôi.
        Mọi người đều nói:
        - Ông Phượng đã bằng lòng chắc là phải có lí do.
        Mọi người giục Hồ công tử cứ đá đi. Hồ công tử nghĩ bụng. Ông Phượng kia cũng không phải là Kim Cương, Cừ Vô Bá(1) mình sợ cái gì? Và nói:
        - Anh Phượng! Nếu anh bằng lòng thì tôi xin làm.
        Phượng kéo thân áo trước ra để lộ cái quần. Hồ đem tất cả sức lực bình sinh đá ngay vào quần đùi nhưng lạ lùng sao, chân không phải đá vào thịt mà đá vào một cục sắt. Năm ngón chân cơ hồ bị gãy. Hồ suýt ngất đi vì đau. Phải một lát sau cái chân mới cử động được. Phượng đến nói “xin lỗi”.
        Mọi người thấy vậy vừa kinh sợ vừa buồn cười. Một lát sau, tất cả cáo từ ra về. Hồ đi khập khiễng tiễn khách ra cửa. Chân không thể xỏ giày vì sưng lên đau nhức bảy tám ngày.
        Phượng ở lại nhà Tần. Ngày nào cũng đánh quyền, phi ngựa cho nên không cảm thấy buồn. Một hôm, đang tập đánh quyền thì thấy một người gầy gò nhỏ bé, trạc độ hai mươi tuổi đến hỏi:
        - Ông Phượng ở Nam Kinh có ở đây không?
        Phượng đi ra gặp, nhận ra là người cháu của Trần Chính Công tên là Trần Hà Tử. Phượng hỏi đến đây có việc gì. Trần Hà Tử nói:
        - Hôm trước Hồ công tử có viết thư nói ông đã đến đây. Chú tôi hiện nay còn ở Nam Kinh bán tơ. Lần này tôi đi Nam Kinh rồi cùng chú tôi về. Ông có dặn gì tôi, có viết thơ, thì tôi sẽ đem đi.
        - Tôi muốn gặp chú anh. Ngoài ra không có việc gì. Chú anh trước đây nợ tôi năm mươi lạng bạc, nếu tiện thì trả cho tôi ngay. Tôi còn ở đây một ít hôm cho đến khi chú anh về. Anh làm ơn nói hộ với chú anh như vậy, tôi cũng không viết thư làm gì.
        Trần Hà Tử vâng dạ về nhà thu xếp hành lí dáp thuyền đi Nam Kinh. Y đi đến hiệu bán tơ của ông Phó trước cửa huyện Giang Ninh, tìm Trần Chính Công. Bấy giờ Trần Chính Công đang ngồi ăn cơm cùng một bàn với Mao Nhị. Thấy cháu đến, Trần bảo vào ngồi cùng ăn và hỏi việc nhà. Trần hà Tử đem chuyện ông Phượng đòi tiền nói lại rồi mang hành lí lên lầu.
        Mao Nhị trước kia mở một cửa hàng chỉ ở Hàng Châu với một số vốn là hai ngàn lạng bạc. Sau này y lại kết bạn với Hồ Tam công tử lấy được thêm hai ngàn lạng bạc rồi đến phủ Gia Hưng mở một hiệu cầm đồ nhỏ. Anh chàng này có cái tật là hà tiện vắt ra nước xem đồng tiền quý hơn mạng của mình. Phen này y lại cùng Trần Chính Công bán tơ. Trần Chính Công cũng là con người coi đồng tiền quý hơn mạng của mình cho nên hai người tương đắc với nhau lắm.
        Cửa hàng bán tơ ở Nam Kinh cho khách bán tơ ăn uống rất hậu. Mao Nhị nói với Trần Chính Công:
        - Ông chủ của phường buôn chúng ta ngày nào cũng cho chúng ta ăn thịt. Đây không phải là thịt của ông chủ chúng ta mà là thịt của chúng ta vì chúng ta sẽ phải tính tiền vào đấy. Chi bằng chúng ta chỉ ăn cơm không của ông ta thôi, còn thịt thì tự mua lấy. Như thế rẻ hơn.
        Trần Chính Công nói: - Nói như vậy đúng lắm! Đến bữa ăn, Trần Chính Công sai Trần Hà Tử mua mười bốn đồng tiền lòng ở nhà bán thịt nấu cho tất cả ba người ăn. Trần Hà Tử không ăn được bao nhiêu nên cứ ấm ức trong lòng.
        Một hôm Mao Nhị nói với Trần Chính Công: - Hôm qua tôi nghe một người bạn nói ông Tần Trung Thư ở ngõ Yên Chi lên Bắc Kinh làm quan. Ông ta không có tiền đi đường, muốn vay một ngàn lạng khấu lãi trước ba mươi phân. Tôi thấy ông ta là một chủ nợ rất chắc
        chắn. Chỉ trong ba tháng là trả nợ. Số tiền mua tơ của anh còn thừa lại hơn hai trăm lạng. Sao anh không lấy hai trăm mười lạng cho ông ta vay, sau ba tháng là có thể được ba trăm lạng. Như thế chẳng lời hơn là bán tơ sao? Nếu anh không tin tôi thì tôi viết cho anh một tờ giấy cam đoan. Tôi quen biết người mách mối. Không có chút mảy may nào đáng ngại cả.
        Trần Chính Công nghe lời cho vay. Ba tháng sau Mao Nhị trả lại cả vốn lẫn lãi. Bạc toàn bạc tốt, cân lại rất đúng. Trần Chính Công rất mừng rỡ.
        Một hôm, Mai nhị lại nói với Trần Chính Công:
        - Hôm qua tôi gặp một người bạn. Ông ta bán nhân sâm. Ông ta nói Từ Công tử trong phủ Quốc Công có một người anh họ là ông Trần mua của ông ta một cân nhân sâm. Nay ông ta muốn về Tô Châu, ông Trần hiện nay chưa đủ tiền cho nên muốn vay một trăm lạng. Sau hai tháng sẽ được trả hai trăm lạng. Cái này cũng hoàn toàn chắc chắn. Trần lại đưa một trăm lạng bạc cho Mao Nhị để Mao Nhị cho vay. Sau hai tháng được hai trăm lạng còn thêm ba mươi đồng nữa. Trần Chính Công lại càng mừng rỡ.
        Còn Trần Hà Tử thì bị Mao Nhị đối xử không ra gì, rượu không có, thịt cũng không, cho nên Trần Hà Tử rất ghét Mao Nhị. Nhân lúc vắng, y nói với Trần Chính Công:
        - Chú ở đây bán tơ. Được lãi bao nhiêu thì giao cho người chủ phường buôn để mua tơ. Nếu chú mua được thứ tơ tốt và đem cầm thì sẽ có lời. Lại lấy số tiền lời mua tơ thì chú sẽ có nhiều tơ nữa để đem cầm. Tiền lãi ở hiệu cầm đồ thì rất nhẹ. Như vậy, cứ mua tơ rồi lại cầm đi, thì với một ngàn lạng bạc, chẳng bao lâu chú sẽ được hai ngàn. Như thế chẳng hơn sao? Đằng này chú lại nghe lời ông Mao Nhị đem tiền cho vay. Cho vay là việc không chắc chắn. Nếu chú cứ mắc cứng ở đây thì bao giờ mới trở về nhà.
        Trần Chính Công nói:
        - Không hề gì, trong vài hôm nữa chúng ta sẽ thu xếp hành lí trở về.
        Một hôm Mao Nhị tiếp được thư ở nhà. Mao xem thư rồi mím môi có vẻ đăm chiêu suy nghĩ một mình.
        Trần Chính Công hỏi:
        - Ở nhà ông có việc gì mà thừ người như thế?
        - Không can gì. Việc này nói với anh không tiện.
        Trần Chính Công hỏi hai ba lần Mao Nhị mới nói:
        - Tôi mới nhận được thơ của đứa con ở nhà nói cửa hàng cầm đồ của họ Đàm ở đường phía đông đã vỡ nợ sắp giao cho người khác. Hiện nay họ có một cái nhà đầy cả đồ đạc, đáng giá một ngàn sáu trăm lạng. Tôi đang nghĩ cách làm thế nào để có thể có những đồ đạc ấy đem về hiệu tôi thì thực là một dịp phát tài. Chỉ tiếc rằng nay gặp lúc đen, tiền không có sẵn.
        Trần Chính Công hỏi:
        - Thế tại sao ông không hùn vốn với người khác?
        - Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Nếu tôi hùn vốn với người khác với tám phần trăm tiền lời thì tôi vẫn còn lời một ít. Nhưng nếu họ đòi thêm hai phân nữa thì tôi mất sạch: “Thịt dê không được nếm mà chỉ ngửi được mùi dê” như thế chẳng bõ công.
        - Tại sao anh lại ngốc thế, anh không đem bàn với tôi chẳng hơn ư? Tôi có ít tiền đây, có thể cho anh mượn. Tôi không sợ anh lừa đâu.
        - Thôi, thôi, anh ơi! Việc làm ăn có chỗ nào không chắc chắn hoặc là nếu sau này bị lỗ vốn, tôi không trả cho anh được thì còn mặt mũi nào mà nhìn anh!
        Thấy anh ta thực thà như vậy, Trần Chính Công quyết tâm cho vay.
        - Này anh, chúng ta cùng bàn việc ấy cho kĩ. Anh có thể lấy tiền của tôi để mua đồ đạc. Tôi không đòi nhiều lãi đâu. Chỉ mỗi tháng hai phân thôi. Như thế anh sẽ lãi to. Sau này anh sẽ trả tôi dần. Nếu anh không trả được ngay tất cả thì chúng ta là bạn thân với nhau, lẽ nào tôi lại làm khó dễ với anh.
        - Như thế thì anh tốt quá. Nhưng việc này phải có người làm chứng viết giấy hẳn hoi giao cho anh làm bằng thì anh mới yên tâm. Lẽ nào việc này lại đem bàn riêng giữa hai người?
        - Tôi biết anh có phải như người ta đâu? Có gì mà không an tâm. Không những không cần ai làm chứng mà cũng không cần giấy tờ gì hết. Chỉ cốt lấy việc tin cậy nhau là hơn.
        Rồi Trần Chính Công giấu Trần Hà Tử, đem tất cả số tiền của mình ở trong bị cũng như số tiền nợ đã thu được, gộp lại được một ngàn lạng, gói ghém cẩn thận rồi giao cho Mao Nhị và nói:
        - Tôi đang đợi ông chủ phường buôn định giá về số tơ của tôi. Tôi cũng định đem số tiền này về Hồ Châu mua một ít tơ nhưng nay tôi giao tất cả cho anh để thu xếp việc ấy. Vài ngày nữa, tôi cũng về nhà.
        Mao Nhị cảm ơn rồi nhận số tiền, trở về Gia Hưng.
        Vài hôm sau khi đã thu được tiền bán tơ, Trần Chính Công từ giã người chủ phường buôn, mang theo Trần Hà Tử xuống thuyền về Hàng Châu. Nhân tiện đường, y ghé qua Gia Hưng thăm Mao Nhị. Hiệu cầm đồ của Mao Nhị ở đường phía tây. Chính Công hỏi thăm đường đi đến. Chỉ thấy ba gian nhà nhỏ cửa nhìn ra dường, bên ngoài có bình phong. Đi qua bình phong thấy một cái nhà khách có ba gian. Có một cái quầy hàng và mấy người buôn ở đấy. Trần Chính Công hỏi:
        - Đây có phải là hiệu buôn của Mao Nhị không? Người buôn ở quầy hàng nói:
        - Ông là ai?
        - Tôi là Trần Chính Công, mới ở Nam Kinh đến đây thăm ông Mao Nhị.
        - Mời ông vào trong nhà ngồi chơi.
        Đằng sau là một cái lầu để đồ đạc, Trần Chính Công bước vào ngồi ở dưới lầu. Người kia đem trà đến.
        - Ông Mao có nhà không?
        - Hiệu này trước kia của ông Mao nhưng nay ông ta đã bán cho ông chủ chúng tôi là ông Uông rồi.
        Trần hoảng hốt nói:
        - Hôm trước ông ấy có đến đây không?
        - Đây không phải là hiệu của ông ta, ông ta đến đây làm gì?
        - Bây giờ ông ấy ở đâu?
        - Ông ta đi lang thang khắp nơi, ai biết đi Bắc Kinh hay Nam Kinh mà tìm?
        Trần Chính Công nghe thấy câu chuyện đầu Ngô mình Sở, mồ hôi toát ra như tắm. Y cùng Trần Hà Tử xuống thuyền về nhà. Hôm sau, có người đến gõ cửa. Mở cửa ra thì thấy Phượng. Trần mời vào phòng khách kể chuyện. Mấy lâu xa cách nhớ nhung, Trần nói:
        - Đáng lí tôi phải trả tiền cho anh đã lâu, nhưng ngày nay tôi bị lừa, không có cách gì trả cho anh cả.
        Công việc xảy ra như thế nào?
        Trần kể lại đầu đuôi cho Phượng nghe. Phượng nói:
        - Không hề gì, anh cứ để mặc tôi. Ngày mai tôi sẽ đi Nam Kinh với ông Tần. Anh cứ ở Gia Hưng đợi tôi. Tôi cam đoan sẽ đưa tiền về cho anh không thiếu một đồng. Anh nghĩ thế nào?
        - Nếu anh làm được thế, tôi không biết lấy gì cảm ơn.
        - Cái việc cảm ơn không cần nói đến!
        Phượng về nhà kể lại câu chuyện đầu đuôi với Tần Nhị. Tần Nhị nói:
        - Bây giờ ông lại có việc rồi. Việc này chắc ông thích làm lắm.
        Tần gọi người nhà đến trả tiền thuê phòng rồi cùng Phượng thu xếp hành lí đến bến Đan Hà xuống thuyền. Sắp đến Gia Hưng, Tần nói:
        - Tôi cũng đi theo anh để xem anh làm gì.
        Tần cùng Phượng lên bờ đến thẳng hiệu cầm đồ của Mao. Thấy Trần Chính Công đang cãi nhau với người ta ở trong hiệu buôn của Mao. Phượng bước nhanh đến cổng và nắm lấy cổng gọi to:
        - Ông Mao có ở nhà không? Ông có muốn trả tiền cho ông Trần hay là không trả?
        Người coi hàng chưa kịp chạy ra thì Phượng đã nắm lấy cửa, ngả mình về phía sau nửa bức tường bị đẩy đổ sầm xuống. Tần Nhị bước vào xem suýt nữa vỡ đầu. Khách hàng và người buôn đứng nhìn mắt trợn trừng miệng há hốc. Phượng lại bước vào nhà khách dựa lưng vào cột ở quầy hàng, hỏi:
        - Chúng bay muốn sống thì mau mau chạy ra.
        Nói xong kéo hai tay ra đằng sau, vặn mình một cái, cột bị nhổ bật lên. Một nửa nhà khách đổ sụp, ngói và gạch rơi xuống như mưa, tro bụi bay tứ tung. May sao, những người coi hàng đều đã chạy ra hết, nên không việc gì. Người ở ngoài đường xúm lại xem vì họ nghe thấy tiếng nhà đổ. Mao Nhị thấy vậy đành phải chạy ra. Phượng mặt mày đầy bụi lại càng kiên quyết. Phượng bước đến chân lầu dựa vào cột chính. Mọi người chạy đến lạy lục. Mao Nhị phải nhận lỗi; hứa trả cả vốn lẫn lãi và van xin Phượng đừng làm đổ sụp nhà cửa của mình. Phượng cười mà nói:
        - Cái tổ của anh to lớn bao nhiêu thì chỉ trong một bữa cơm ta cũng có thể san phẳng.
        Tần Nhị và Trần Chính Công đều ở dưới lầu nhìn. Tần nói:
        - Anh Mao! Anh làm như vậy là không đúng; anh tưởng không có ai làm chứng thì ông Trần không thể lên quan kiện. Vì vậy anh lừa ông ta. Cho hay: “Sợ chi kẻ khó đi vay. Sợ chăng, đòi nợ là tay anh hùng”. Ngày nay anh đã gặp ông Phượng chắc chả ăn quịt được đâu.
        Mao Nhị không biết làm thế nào đành phải trả lại cả vốn lẫn lãi và việc ấy như thế là xong. Trần Chính Công nhận được tiền, tiễn Tần và Phượng xuống thuyền. Sau khi mọi người đã rửa mặt xong, Trần đưa cho Phượng hai gói bạc, tất cả một trăm lạng để cảm tạ. Phượng cười mà nói:
        - Đó chẳng qua tôi cao hứng mà giúp anh đấy thôi. Tôi không muốn anh cảm ơn gì hết. Tôi chỉ lấy năm mươi lạng số tiền anh nợ tôi, còn năm mươi lạng kia thì anh cầm lấy.
        Trần Chính Công cảm tạ nhận số bạc, từ biệt hai người, thuê một chiếc thuyền nhỏ về nhà.
        Tần và Phượng vừa cười vừa nói chuyện, chẳng bao lâu đến Nam Kinh và trở về nhà. Hai ngày sau, Phượng đến ngõ Yên Chi để thăm Tần Trung Thư. Người giữ cổng nói:
        - Chủ chúng tôi gần đây cứ đi chơi suốt ngày với ông Trần Tứ, người phủ Thái Bình trong nhà ông Trương ở lầu Lai Tân, không thấy về nhà.
        Sau đó Phượng gặp Tần Trung Thư, khuyên Tần Trung Thư không nên làm như vậy. Vừa lúc ấy, may sao có một bức thư ở kinh đô đưa đến, nói rằng Tần sắp sửa được bổ làm quan. Tần vội vàng thu xếp hành lí lên kinh. Chỉ còn một mình Trần Tứ vui chơi ở lầu Lai Tân.
        Chỉ nhân phen này khiến cho:
        Phủ Quốc Công chơi tuyết, cùng dốc chén quỳnh,
        Lầu Lai Tân đêm khuya, chợt mơ giấc mộng.
        Muốn biết lầu Lai Tân như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
        -------------
        (1) Kim Cương là phật Kim Cương, Cừ Vô Bá là người khổng lồ đời Hán đứng lên cao quá cửa thành. Ý nói những con người to lớn đời xưa.


        hết: Hồi 52, xem tiếp: Hồi 53
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #49
          Hồi 53

          Phủ Quốc Công đêm tuyết tiếp tân bằng
          Lầu Lai Tân hoa đèn kinh giấc mộng

          Mười hai cái lầu này ở Nam Kinh, cửa trước, ở cầu Vũ Định cửa sau ở vườn Đông Hoa, về cuối phía nam đường Sao Khố ở cầu Trường Bản. Từ khi đã lấy được thiên hạ, Minh Thái Tổ bắt con cái các công thần nhà Nguyên đều phải làm con hát, đặt ti giáo phường(1) cai quản. Người cai quản ở đấy có nha dịch hàng ngày ngồi công đường đánh người. Chỉ khi nào các vương tôn, công tử đến chơi thì họ mới không dám xem mình ngang hàng với khách và buông tay đứng hầu. Mỗi năm vào mùa xuân tháng hai, tháng ba các chị em ở đấy tô son, điểm phấn, đứng trước cửa dưới bóng liễu mời khách vào chơi. Lại có một hội chơi nhiều người thường đến, các thức ăn hết sức ngon lành, những người bếp tranh nhau trổ tài. Chị em nào có nhan sắc không phải bạ ai cũng tiếp. Lại có những bà già, chuyên đến các nhà, đốt hương, chùi lư hương, bày biện các bình hoa, lau bàn ghế, dạy đánh đàn, đánh cờ, vẽ và viết. Mặc dầu các chị em có nhiều khách làng chơi, nhưng người nào cũng muốn có vài danh sĩ lui tới để cho có vẻ khác tục. Ở lầu Lai Tân có một người con gái tên là Sính Nương. Người cha ngày xưa là con hát trong ban Lâm Xuân, lúc còn trẻ nổi tiếng trong việc đóng vai con gái, sau này có râu, nên phải bỏ nghề, đi lấy một bà vợ, hi vọng bà ta sẽ tiếp khách hộ mình. Không ngờ bà vợ đã béo lại đen. Từ khi vợ chồng lấy nhau, không có ma nào đến chơi cả. Về sau, không biết làm sao, đành phải nuôi một người con nuôi và kiếm cho y một cô gái nhỏ để làm vợ. Khi lên mười sáu tuổi; cô rất xinh đẹp. Từ đấy khách khứa kéo nhau đến chơi chật cả nhà. Mặc dầu Sính Nương là gái giang hồ, cô ta vẫn thích đi lại với các quan. Người cậu là Kim Tu Nghĩa con Kim Thứ Phúc, thỉnh thoảng cũng đưa đến nhà một, hai ông quan. Hôm ấy Kim Tu Nghĩa nói:
          Ngày mai, sẽ có một người khách đến nhà cháu chơi. Ông ta là anh em chú bác với Từ công tử ở trong phủ Quốc Công. Ông ta họ Trần, vì là con thứ tư nên mọi người gọi là Trần Tứ. Hôm qua ở trong phủ Quốc Công diễn tuồng, ông Trần Tứ có nói với cậu rằng ông ta nghe tiếng cháu, muốn đến xem mặt. Cháu mà đi lại với ông ta thì rồi sẽ được làm quen Từ công tử. Như thế là may cho cháu lắm!
          Sính Nương nghe nói mừng rỡ vô cùng. Kim Tu Nghĩa uống trà xong đi ra.
          Hôm sau Kim Tu Nghĩa lại đến thăm Trần Tứ. Trần Tứ là người phủ Thái Bình trọ ở cái nhà bên bờ sông của ông Đổng ở cửa Thuỷ Đông. Khi Kim Tu Nghĩa đến thì có hai người đầy tớ mặc quần áo mới tinh ra đưa vào. Trần đi ra, đầu đội mũ vuông mình mặc áo màu ngọc thạch, ở trong là cái áo lông chồn, chân đi giày đen đế trắng, da mặt trắng, ước chừng hai mươi tám, hai mươi chín tuổi. Thấy Kim Tu Nghĩa, Trần hỏi:
          - Hôm qua ông có nói việc ấy giúp tôi không? Khi nào thì chúng ta đi?
          - Hôm qua con đã đến nói, hôm nay cô ta đợi ông.
          - Tốt lắm! Thế chúng ta cùng đi thôi.
          Nói xong, Trần vào nhà thay áo quần mới, rồi ra bảo hai người đầy tớ gọi người khiêng kiệu đến. Vừa lúc ấy, có một người đầy tớ nhỏ mang đến một bức thư, Trần nhận ngay là người nhà của Từ công tử, bèn cầm bức thư mở ra đọc, thư viết: “Kính gửi anh họ là Mộc Nam. ”Bây giờ tuyết bắt đầu tan, ở trong vườn, hoa hồng mai đã bắt đầu nở. Mong anh đến nhà em nói chuyện. Anh chớ có từ chối. Từ Vinh kính thư“ Trần xem xong nói với Kim Tu Nghĩa:
          - Nay tôi phải đến phủ Quốc Công. Ngày mai, ông lại đến đây.
          Kim Tu Nghĩa đi rồi, Trần lại lên kiệu, có hai đầy tớ theo hầu. Đi đến đường Đại Công. Kiệu dừng trước phủ Quốc Công. Người đầy tớ vào trước. Một lát sau, ở trong nhà có tiếng nói:
          - Mời vào!
          Trần xuống kiệu bước vào cửa đi qua điện Ngân Loan. Từ công tử đang đứng ở trước cửa vườn đón chào và nói:
          - Anh Từ, anh mặc áo quần gì mà nhiều thế?
          Trần thấy Từ công tử đội mũ điêu đen, mình mặc áo kép đoạn thêu kim tuyến, lưng thắt đai tơ, chân đi giày đỏ. Hai người cầm tay nhau. Trong vườn những hòn núi giả lóng la lóng lánh, cái cao, cái thấp lô nhô xây toàn bằng đá lấy ở Thái Hồ. Tuyết trên núi vẫn chưa tan hết. Từ công tử dắt Trần Tứ đi men theo cái lan can quanh co, đến một cái đình. Cái đình này là nơi cao nhất trong vườn. Đứng ở đấy có thể nhìn thấy mấy trăm cây mai nở hoa lốm đốm hồng. Từ công tử nói:
          - Tiết trời ở Nam Kinh độ rày ấm áp sớm hơn mọi ngày. Chưa đến tháng mười mà hoa mai đã nở hết.
          Trần nói:
          - Ở đây không phải như ở chỗ khác. Mặc dầu đình nhìn ra bốn phía nhưng người ta không cảm thấy lạnh chút nào. Trong thơ Đường có câu: “Trời lạnh bên ngoài ai biết đâu? Không đến đây thì không thể biết cái hay của câu thơ người xưa.
          Đang nói chuyện thì rượu đem lên. Cái mâm bằng bạc để trên một cái giá dưới đốt bằng rượu, rượu vẫn cháy sôi làm cho những thức ăn nóng mà không có một chút mùi khói nào. Hai người uống rượu, Từ công tử nói:
          - Những đồ dùng gần đây rất đẹp mắt. Những người xưa cũng không biết làm như vậy. Cho hay người xưa cũng không khéo tay bằng người bây giờ.
          Trần nói:
          - Tôi tiếc rằng tôi đến đây hơi chậm. Năm Ngu bác sĩ ở Quốc Tử Giám, Trì Hành Sơn có mời Ngu bác sĩ làm chủ tể ở đền Thái Bá thì chỉ dùng lễ nhạc xưa, các đồ vật dùng trong buổi lễ đều bắt chước đồ xưa. Nếu bấy giờ tôi ở Nam Kinh thì thế nào cũng đến dự lễ để xem lễ nhạc ngày xưa như thế nào.
          - Mười năm nay tôi cứ ở Kinh Đô, không biết ở nhà có những vị hiền nhân quân tử như vậy! Nay về đây không được gặp mặt thật lấy làm tiếc.
          Uống rượu một lát, Trần cảm thấy trong người nóng rực bèn cởi áo ngoài ra.
          Người quản gia vội vàng đỡ lấy áo, xếp lại và đặt lên giá Từ công tử nói:
          - Tôi nghe trước đây có ông Đỗ nào đấy ở Thiên Trường có mở cuộc thi hát tuồng ở Mạc Sầu Hồ. Lúc bấy giờ còn có vài người đóng tuồng khá. Nhưng tại sao ngày nay không tìm thấy một người nào đóng vai đàn bà nên hồn? Hay là ngày nay không còn hạng người ấy nữa sao?
          - Cái việc ấy thật là ông Đỗ bày đặt ra! Từ xưa đến nay đàn bà không có ai hèn, ai quý. Ngay một cô tì thiếp ở thanh lâu cũng có thể làm hầu và nếu sinh được một người con trai làm quan thì người mẹ lại được phong nữa. Còn những người đi hát tuồng thì bất kì anh ta như thế nào chung quy vẫn là một con người hèn hạ. Từ ngày ông Đỗ bày ra cái trò chấm thi ấy, các danh sĩ hay các quan ở đây khi nào có tiệc thường mời mấy người hát tuồng đến cùng ngồi nói chuyện, hết chuyện này sang chuyện khác, không còn ra thể thống gì nữa! Ông Đỗ phải chịu lỗi về việc đó.
          - Đó cũng là do lỗi của những nhà mới nổi lên chứ trong nhà tôi không có anh hát tuồng nào dám làm thế.
          Nói chuyện một lát, Trần lại thấy bức hơn và cởi thêm một cái áo nữa. Người quản gia lại đỡ lấy. Trần nói:
          - Tôi biết ở phủ này không phải như ở bên ngoài. Nhưng tại sao lại ấm như vậy?
          Từ công tử nói:
          - Anh Tứ, anh không thấy cách đình một trượng thì không có tuyết hay sao? Đình này làm trong thời cha tôi còn làm quốc công. Nó đúc toàn bằng đồng trắng, ở trong đổ than cho nên mới nóng như vậy. Anh không thể thấy ở đâu có một cái đình như thế này nữa!
          Bấy giờ Trần mới hiểu nguyên do. Hai người cùng uống rượu một lúc thì trời bắt đầu tối. Trên mấy trăm cây mai có treo những ngọn đèn lồng, cái cao cái thấp, trông như hàng ngàn hòn ngọc chiếu sáng khắp nơi. Ánh sáng chiếu vào những cây mai và những cành mai lại càng thêm xinh đẹp. Uống trà xong, Trần cáo từ ra về.
          Hôm sau, Trần viết thơ cho người nhà đem đến phủ Quốc công vay Từ công tử hai trăm lạng bạc. Trần đem tiền mua mấy tấm đoạn may mấy bộ áo quần cùng người đầy tớ mang đến nhà Sính Nương để làm lễ ra mắt. Đến cửa lầu Lai Tân, nghe tiếng chó sủa thấy một người đàn bà đen và béo đi ra. Thấy Trần dáng người phong nhã, người đàn bà liền mời vào nhà. Trần bước vào thấy hai gian phòng ngủ, trước mặt là một cái phòng trang điểm, có những bình hoa và lư hương rất đẹp mắt. Bấy giờ Sính Nương đang cùng một người đánh cờ. Nghe nói Trần đến, cô ta vội vàng bỏ ván cờ và ra chào, nói:
          - Không biết ngài đã đến, xin ngài tha lỗi.
          Mụ dầu nói:
          - Đây là ông Trần Tứ ở Thái Bình. Cô thường đọc thơ của ông và khao khát mong được gặp. Ông Tứ vừa ở phủ Quốc Công đến đây.
          Trần nói:
          - Đây có hai bộ áo quần. Nếu bà nhận giúp, tôi rất vui lòng.
          Mụ dầu nói:
          - Sao ông lại nói như thế? có khi mời chưa chắc ông đã đến cho.
          Trần nhân tiện hỏi:
          - Vị này là ai?
          Sính Nương đỡ lời:
          - Đây là ông Trâu Thái Lai ở cầu Cửa Bắc. Ông là người đánh cờ giỏi nhất Nam Kinh và là thầy dạy đánh cờ của em.
          Trần nói:
          - Đã lâu mong được gặp.
          Trâu Thái Lai nói:
          - Ông là ông Trần Tứ phải không? Tôi nghe nói ông là anh họ của Từ Công tử, thực là một vị quý nhân. Hôm nay ông hạ cố đến đây thực là diễm phúc cho Sính Nương.
          Sính Nương nói:
          - Chắc ngài là một tay cao cờ, sao ngài không đánh với thầy học tôi một ván? Tôi học cờ ông Trâu đã hai năm nay, nhưng không bao giờ hạ được những nước hay của ông cả.
          Mụ dầu nói:
          - Mời ngài cùng đánh với thầy Trâu một ván, tôi xin đi làm cơm.
          Trâu nói:
          - Tôi đâu dám, mong được ông dạy bảo.
          Sính Nương nói:
          - Không ngại, thầy Trâu thích đánh cờ hơn gì hết.
          Nói xong, Sính Nương bèn bày cờ ra để hai người đánh. Trâu Thái Lai nói:
          - Tôi và ông Tứ cùng đánh cờ ngang nhau.
          Trần nói:
          - Ông là tay đánh cờ giỏi nhất nước. Tôi đánh với ông sao nổi, ông phải bớt cho tôi vài con mới đánh được.
          Sính Nương ngồi bên cạnh không đợi nói năng gì, lấy đi bảy con cờ đen. Trâu Thái Lai nói:
          - Tại sao lại lấy đi nhiều thế? Cô muốn tôi làm trò cười phải không?
          Trần nói:
          - Tôi biết ông không đánh không tiện, tôi xin đặt số tiền đây.
          Nói xong lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Sính Nương. Sính Nương ngồi bên cạnh giục Trâu Thái Lai. Trâu Thái Lai miễn cưỡng đi một con cờ. Lúc đầu, Trần chưa thấy gì, nhưng đi được nửa ván thì bị bao vây bốn phía, khi muốn tấn công thì quân của Trâu đã bao vây ở ngoài, muốn dừng tấn công thì thế cờ đã thua. Cuối cùng, mặc dầu được Trâu về quân nhưng phải tốn rất nhiều sức mới đánh nổi. Trâu Thái Lai nói:
          - Ông Tứ cao cờ quả là đối thủ của Sính Nương vậy.
          Sính Nương nói:
          - Thầy Trâu không bao giờ thua. Nhưng hôm nay như thế này cũng là thua rồi!
          Trần nói:
          - Đó là vừa rồi ông Trâu có ý nhường tôi, chứ tôi địch sao nổi. Ông nhường tôi hai con nữa, rồi chúng ta cùng đánh một ván.
          Vì đánh cờ tiền, lại thấy Trần đánh rất tồi, cho nên chẳng sợ Trần giận. Trâu nhường luôn chín con không chút ngần ngại mà vẫn còn hơn ba mươi con. Trần lại càng tức tối, đòi đánh nữa. Mặc dầu Trâu nhường mười ba con cờ, Trần cũng không sao thắng nổi. Trần nói:
          - Ông quả thực là cao cờ. Giờ ông nhường cho tôi vài con.
          - Nếu tôi nhường thêm vài con nữa thì còn chỗ đâu đặt con cờ!
          Sính Nương nói:
          - Trâu sư phụ! Bây giờ chúng ta chơi một trò khác, sư phụ không được đi con đầu tiên. Tôi cầm con cờ thả xuống bàn, nó nằm ở đâu thì phải để ở đấy.
          Như thế gọi là “để trời ban phúc”.
          Trâu Thái Lai nói:
          - Cái trò chơi ấy tôi chưa bao giờ thấy. Nhưng Trần vẫn muốn đánh, Trâu phải để Sính Nương cầm một con cờ trắng thả xuống bàn và hai người lại bắt đầu đánh. Lần này, bốn năm con cờ của Trâu bị loại. Trần vui mừng hớn hở nhưng Trâu lại tìm cách gỡ các nước bí, và Trần lại sắp thua. Lúc bấy giờ con mèo hoa của Sính Nương nhảy vào giữa bàn cờ, làm bàn cờ đổ. Mọi người cười ồ đứng dậy. Vừa lúc ấy, mụ dầu vào báo cơm đã dọn xong.
          Khi rượu bưng lên, Sính Nương giơ cao ống tay áo màu cánh trả, uống một chén mừng Trần Tứ, uống chén thứ hai mừng Trâu Thái Lai. Trâu Thái Lai không dám nhận, giơ tay đỡ lấy chén rượu và để lên bàn. Mụ dầu vào, ngồi bên cạnh. Chờ Trần đã uống xong một chén rượu, mụ dầu cũng uống một chén rượu mừng và nói:
          - Ngài đã uống các thứ rượu ngon, nếm các thứ ăn ngon ở trong phủ Quốc Công, chắc ngài không quen ăn ở trong nhà chúng tôi.
          Sính Nương nói:
          - Mẹ nói gì vậy? Ở trong nhà ngài thiếu gì những thức ăn ngon, cần gì phải đến phủ Quốc Công.
          Mụ dầu vừa nói vừa cười:
          - Cô nói như vậy là đúng. Tôi sai rồi, xin uống một chén rượu phạt!
          Sau đó rót ngay một chén rượu lớn và uống hết cả. Trần cười mà nói:
          - Rượu và thức nhắm thì ở đâu cũng thế cả.
          Mụ dầu nói:
          - Tôi sống ở Nam Kinh đã hơn năm mươi năm nay, ngày nào cũng nghe nói đến phủ Quốc Công, nhưng chưa bao giờ tôi bước chân tới. Trong phủ chắc là phải đẹp như trong động tiên. Tôi nghe nói trong phủ Quốc Công người ta không thắp nến.
          Trâu Thái Lai nói:
          - Bà nói gì mà ngốc thế.Ở trong phủ không thắp nến thì thắp đèn dầu chứ gì?
          Mụ dầu giơ tay ra hiệu nói:
          - Ông Trâu nói gì thế! Không phải người ta không thắp nến mà thắp đèn dầu đâu. Tôi nghe nói họ không thắp đèn nến vì những người con gái ở trong phủ mỗi người đều có một hạt minh châu dạ quang treo trên xà nhà, chiếu sáng cả gian phòng cho nên không phải thắp đèn sáp. Có phải thế không ông Trần?
          Trần nói:
          - Cố nhiên trong phủ có châu ngọc, nhưng tôi chắc cũng không ai dùng để làm đèn sáp. Người em gái họ của tôi tính tình rất dịu dàng. Nay mai tôi sẽ đem Sính Nương đến thăm và bà sẽ ăn mặc giả làm người hầu, mang một gói quần áo, như thế bà tha hồ xem.
          Mụ dầu vỗ tay:
          - A di đà Phật! Nếu tôi được xem những vật quý giá ấy thì quả thực hả cả một đời! Ngày nào tôi cũng thắp hương cầu Phật. Nay ông Trần quả là vị phúc tinh đến nhà đem tôi đến thiên cung. Kiếp sau chắc chắn tôi sẽ được làm người không phải làm lừa ngựa nữa.
          Trâu Thái Lai nói:
          - Khi Thái Tổ đưa bà Dương và ông Quý vào hoàng cung thì họ tưởng hoàng cung là một tòa miếu cổ. Mai đây, bà vào phủ Quốc Công chỉ sợ bà cũng tưởng đấy là một tòa miếu cổ mà thôi.
          Tất cả mọi người lại cười vang. Uống được hai chén rượu thì mụ dầu ngà ngà say, đưa cặp mắt say nhìn và nói:
          - Những người con gái trong phủ chắc là đẹp như bức tranh. Nếu ngài đưa Sính Nương vào thì nó sánh làm sao được?
          Sính Nương lườm mẹ một cái và nói:
          - Người ta sinh trên đời, xấu hay đẹp đâu phải ở chỗ sang hay hèn mà ra. Nếu vậy thì con gái các quan có tiền đều đẹp hết cả hay sao? Năm xưa em đến dâng hương ở am Thạch Quan Âm thấy hơn mười người ở trong phủ Quốc Công đi kiệu ra, người nào mặt mũi cũng tròn trĩnh không có gì khác mọi người.
          Mụ dầu lại nói:
          - Tôi lại sai rồi. Cô nói như vậy là đúng. Tôi xin uống một chén rượu phạt.
          Sau khi uống một chén rượu nữa, mụ dầu lảo đảo, thu dọn đồ đạc, bảo người nhà cầm đèn đưa Trâu Thái Lai về nhà và mời Trần Tứ vào phòng ngủ.
          Trần Tứ xuống lầu bước vào phòng thì ngửi thấy một mùi hương ngào ngạt. Cạnh cửa sổ, trên bàn gỗ có một cái giá gương, trên tường treo một bức tranh do Trần Mi Công vẽ(2). Một bức tượng quan âm bằng ngọc để trên bàn, hai bên là tám cái ghế bằng gỗ nam, ở giữa phòng là cái giường khảm xà cừ, mắc cái màn bằng nhiễu đỏ. Trên giường, nệm chồng cao đến ba thước, đầu giường là một cái lồng ấp. Trước giường là một cái giá có chục quả thanh yên buộc lại làm thành một cái rèm tua. Ở trong phòng có một cái hỏa lò lớn, than hồng chiếu sáng rực. Trên hỏa lò là một ấm nước bằng đồng, ở trong là nước mưa đang sôi. Sính Nương giơ hai tay mềm mại ra lấy một ít trà ở trong bình bằng bạc và bỏ vào cái ấm trà Nghi Hưng, rót nước vào ấm và mời Trần Tứ uống. Hai người sánh vai nhau ngồi uống và sai một người đầy tớ gái đem nước vào. Sính Nương trải khăn tay đỏ trên đai Trần Tứ và hỏi:
          - Anh Tứ! Anh là bà con với phủ Quốc Công, như vậy bao giờ anh sẽ làm quan?
          - Điều này anh không muốn nói với ai, anh chỉ nói với em rằng người anh họ của anh ở kinh đã tiến cử anh. Trong một năm nữa, anh sẽ làm tri phủ. Nếu em yêu anh thì anh sẽ nói với mẹ em đem vài trăm lạng bạc để chuộc em rồi em sẽ đi với anh.
          Sính Nương nghe nói vậy vội nắm lấy tay của Trần, ngả vào lòng và nói:
          - Điều anh nói tối nay có Thần đèn nghe hết! Nếu anh bỏ em mà đi lấy người khác thì Quan Âm Bồ Tát của em rất là linh nghiệm. Em chỉ quay mặt quan âm vào tường thế là khi nào anh nằm với người khác là đầu sẽ đau. Bao giờ anh đứng dậy mới hết đau. Em là con nhà danh giá, không phải em ham làm bà quan đâu nhưng em yêu anh, xin anh chớ phụ lòng em.
          Người đầy tớ gái đẩy cửa phòng mang thùng nước vào, Sính Nương ngồi dậy kéo ngăn kéo ra lấy một nhúm gỗ đàn hương vụn bỏ vào nước bảo Trần Tứ ngồi xuống và rửa chân cho Trần. Đang lúc rửa chân thì một người đầy tớ gái khác cầm đèn lồng vào; theo sau là bốn năm chị em cũng đều đội mũ điều, mặc áo quần sang trọng. Họ ngồi trên mấy cái ghế, cười nói vui vẻ.
          - Chị Sính Nương hôm nay tiếp một người khách quý, ngày mai thế nào cũng có một bữa tiệc và phải mời tất cả chúng tôi đấy nhé.
          Sính Nương nói:
          - Cái đó là cố nhiên.
          Chị em cười đùa một lát rồi đi ra. Sính Nương cởi áo lên giường. Trần Tứ thấy Sính Nương da thịt mập mạp, mềm mại, rất lấy làm sung sướng. Lát sau Sính Nương ngủ say, lúc tỉnh dậy thấy ngọn đèn đã tàn, quay lại nhìn Trần Tứ, thấy Trần Tứ ngủ mê mệt. Lúc ấy là nửa đêm, canh ba vừa đánh. Sính Nương quấn chăn xung quanh người Trần Tứ rồi lại nằm ngủ.
          Nằm được một lát thì nghe ở ngoài cửa có tiếng thanh la, Sính Nương nghĩ bụng:
          - Bây giờ là nửa đêm, tại sao ở trước cửa nhà ta lại có thanh la inh ỏi?
          Lại nghe tiếng thanh la đến gần, ở ngoài phòng có người nói:
          - Mời bà đến nơi bổ nhiệm.
          Sính Nương mặc áo thêu, đi giày rồi ra cửa thì thấy bốn người đầy tớ gái đang quỳ ở ngoài nói:
          - Ông Trần nay được bổ làm tri phủ Hàng Châu, cho chúng con đến đây mời bà đến Hàng Châu để cùng hưởng phú quý.
          Sính Nương nghe vậy vội vàng vào phòng chải đầu, mặc áo quần. Những người đầy tớ gái lại đưa mũ phượng đồ lễ phục đến. Ra ngoài sảnh thì thấy một cái kiệu lớn, Sính Nương lên kiệu ra cửa thì thấy ngoài cửa, cờ, quạt, lọng, âm nhạc, kẻ hầu, người hạ đứng đợi tấp nập. Một người nói:
          - Đưa bà đến phủ Quốc Công đã!
          Đang lúc hứng thú như vậy thì ở bên đường có một ni cô đầu trọc, mặt vàng, tiến đến bên kiệu nắm lấy Sính Nương và mắng:
          - Đây là đồ đệ của tôi. Các ông đưa nó đi đâu? Sính Nương nói:
          - Ta là vợ quan tri phủ Hàng Châu. Mụ ni cô trọc đầu này là ai mà dám nắm lấy ta.
          Sính Nương định ra lệnh cho tôi tớ xích người kia thì bỗng thấy người kia biến mất. Sính Nương kêu thất thanh và va phải người Trần Tứ. Bây giờ Sính Nương mới biết là giấc chiêm bao.
          Nhân phen này khiến cho:
          Phong lưu công tử, bỗng dưng du lịch đất Mân
          Yểu điệu giai nhân, kết cục quy y cửa Phật.
          Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
          -------
          (1) Cơ quan quản lí các con hát dạy hát múa và phân phối họ để phục vụ sở thích của khách chơi.
          (2) Trần Mi Công là một nhà họa sĩ nổi tiếng đời Tống.


          hết: Hồi 53, xem tiếp: Hồi 54
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #50
            Hồi 54

            Giai nhân ốm, đoán số lầu xanh,
            Danh sĩ khờ dâng thơ quán đĩ

            Sính Nương đang ngủ với Trần Tứ, mơ thấy Trần Tứ đã được làm tri phủ Hàng Châu, lúc tỉnh dậy nhìn ra ngoài cửa sổ thấy trời đã sáng. Sính Nương dậy rửa mặt chải đầu. Trần cũng dậy. Mụ dầu vào phòng hỏi thăm sức khỏe. Đang lúc ăn điểm tâm thì Kim Tu Nghĩa vào đòi Trần Tứ cho mình uống rượu mừng, Trần Tứ nói:
            - Hôm nay tôi phải lên phủ Quốc Công, ngày mai tôi sẽ trở lại và đãi anh một bữa.
            Kim Tu Nghĩa bước vào phòng thấy Sính Nương vẫn chải đầu chưa xong. Bộ tóc mây đen nhánh buông thõng đến đất. Kim Tu Nghĩa nói:
            - Chúc mừng cháu Sính Nương hôm nay được một người khách quý. Kìa! Đến bây giờ cháu vẫn còn tô điểm chưa xong kia à! Thế này thì càng ngày lại càng lười biếng rồi.
            Nói xong quay lại hỏi Trần Tứ:
            - Ngày mai lúc nào ông trở lại đây? Tôi sẽ thổi sáo và bảo Sính Nương hát vài khúc cho ông nghe. Trong tất cả các chị em ở mười sáu lầu này không ai hát bài “Thanh bình điệu” của Lý Bạch hay bằng Sính Nương cả.
            Trong khi Kim Tu Nghĩa nói thì Sính Nương lấy khăn tay lau bụi trên mũ Trần Tứ và dặn:
            - Chiều mai thế nào anh cũng phải đến, đừng để em đợi đấy!
            Trần Tứ gật đầu về nhà với hai người hầu. Vì không còn tiền nữa Tứ viết một cái thư khác sai người đưa đến phủ Quốc công nhờ Từ công tử thứ chín ở phủ Từ quốc công cho mượn hai trăm lạng nữa. Một lát sau, người đầy tớ trở về báo:
            - Ông Chín gửi lời thăm ông, ông ta vừa ở Bắc Kinh đến phủ Quốc Công. Ông Ba được bổ làm tri phủ Chương Châu tỉnh Phúc Kiến. Trong ngày mai, ông Chín sẽ đến thăm ông rồi sẽ cùng đi Phúc Kiến để giúp việc cho ông Ba. Còn số tiền thì ngày mai ông Chín sẽ mang lại, nhân tiện để từ biệt ông một thể.
            - Nếu ông Ba đã về thì ta phải đến thăm trước.
            Nói xong Trần lập tức lên kiệu, mang theo người hầu đến phủ Quốc Công. Khi người giữ cổng vào bảo, một người quản gia ra nói:
            - Ông Ba và ông Chín đều đi ăn tiệc ở Mộc Phủ. Nếu ông có danh thiếp, tôi xin đưa lại.
            - Tôi cũng không có việc gì nói, chỉ đến hầu thăm ông Ba thôi.
            Nói xong, Trần trở về nhà. Hôm sau hai công tử đến nhà Trần để từ biệt. Họ xuống kiệu ở ngoài cửa, Trần ra tiếp, đưa vào ngồi trong nhà khách ở bên bờ sông. Công tử thứ Ba nói:
            - Đã lâu lắm chúng ta không gặp nhau. Nay trông em lại đẹp trai hơn trước . Khi cô mất đi thì anh ở Bắc Kinh không thể đến điếu. Mấy năm nay, chắc học vấn của em lại càng sâu rộng hơn trước.
            - Mẹ em mất đi đến nay đã hơn ba năm. Vì em rất phục học vấn của em Chín nên em đến Nam Kinh để mong được học tập. Nay em anh lại được bổ nhiệm đến Phúc Kiến, cả em Chín cùng đi theo, em không biết nhờ vào ai.
            Công tử thứ chín nói:
            - Nếu anh không ngại gì xin anh cùng đi với em. Đường xa đi đông cho đỡ buồn.
            - Em cũng muốn cùng đi lắm, nhưng trong nhà còn ít việc vặt chưa thu xếp xong, phải đợi hai ba tháng sau mới có thể đến Phúc Kiến được.
            Công tử thứ chín bảo người nhà mang vào một cái hộp trong đó có hai trăm lạng bạc, đưa cho Trần Công tử thứ ba nói:
            - Anh đợi em đến nha môn. Ở đấy có nhiều việc cần em giúp đỡ, thế nào em cũng đến giúp anh.
            Uống trà xong, hai người cáo từ ra về. Trần cũng lên kiệu đến phủ Quốc Công. Trần tiễn hai người đến tận thuyền rồi cáo từ về nhà.
            Bấy giờ Kim Tu Nghĩa đang ngồi đợi ở nhà liền theo Trần Tứ đến Lâu Lai Tân. Hai người bước vào phòng ngủ; thấy Sính Nương vẻ mặt xanh xao. Kim Tu Nghĩa nói:
            - Mấy lâu nay cháu không được gặp ông Trần nên đau tim.
            Mụ dầu đứng bên cạnh nói:
            - Cháu nó được nương chiều từ lúc còn bé, khi nào cháu nó buồn bực việc gì thì bệnh đau tim lại phát ra. Hai hôm nay ông không đến, cháu nói rằng ông ghét cháu, nên bệnh lại phát.
            Sính Nương nhìn thấy Trần Tứ, hai hàng nước mắt rưng rưng không nói được một tiếng. Trần Tứ nói:
            - Em đau ở đâu? Muốn chữa bệnh này thì làm thế nào? Trước đây khi bệnh này phát ra thì uống thuốc gì?
            Mụ dầu nói:
            - Trước đây cháu mắc bệnh này, cháu thường không chịu uống một tí nước trà nào. Thầy thuốc có cho đơn; nhưng cháu chê thuốc đắng không chịu uống. Tôi phải nấu nhân sâm cho uống từng thìa một; như thế dần dần mới khỏi được.
            Trần Tứ nói:
            - Tôi có tiền đây. Tôi sẽ đưa năm mươi lạng bạc để bà mua nhân sâm cho nàng dùng. Sau này mua được thứ nhân sâm tốt tôi sẽ đưa lại.
            Sính Nương nghe vậy dựa lưng vào gối thêu, quấn chăn xung quanh mình; mặc một áo lót màu đỏ, thở dài một cái và nói:
            - Khi nào bệnh này phát ra, không hiểu tại sao trong lòng em thấy rờn rợn.
            Thầy thuốc bảo em nếu uống nhân sâm thôi thì hư hỏa càng mạnh. Vì vậy em phải dùng nhân sâm với hoàng liên. Như vậy đêm mới chợp mắt được. Nếu không thì mắt cứ mở thao láo mãi đến sáng.
            Trần nói:
            - Cái đó cũng dễ. Ngày mai anh sẽ đưa hoàng liên đến cho em.
            Kim Tu Nghĩa nói:
            - Ông Tứ ở trong phủ Quốc Công, nhân sâm và hoàng liên đáng giá là bao Sính Nương cứ tha hồ mà dùng.
            Sính Nương nói:
            - Em không hiểu tại sao trong lòng em thấy rờn rợn, cứ nhắm mắt là nằm mơ lung tung. Ngay cả ban ngày cũng còn sợ.
            Kim Tu Nghĩa nói:
            - Đó là vì con người cô yếu đuối cho nên không chịu đựng được sự khó nhọc không chịu được điều phiền muộn!
            Mụ dầu nói:
            - Hay là có xúc phạm đến vị thần nào chăng? Phải nhờ một nhà sư đến giải hạn cho mới được.
            Vừa lúc ấy bên ngoài có tiếng mõ. Mụ dầu chạy ra thấy sư cô Bản Tuệ trong am Diên Thọ đến để xin gạo hàng tháng. Mụ dầu nói:
            - Ối chào! Sư cô đây rồi. Hai tháng nay không gặp. Mấy lâu nay sư cô ở trong chùa lễ Phật có bận lắm không?
            - Không giấu gì bà, năm nay gặp lúc không may. Tôi có một cô tiểu hai mươi tuổi, vừa mất tháng trước. Đến cả lễ Quan âm cũng chưa làm được. Người dâu của bà như thế nào?
            - Cứ nay khỏe, mai lại đau. May có ông Trần ở phủ Thái Bình chăm sóc cho. Ông Trần là anh em họ với Từ công tử trong phủ Quốc Công, thường hay đến nhà tôi. Nay bệnh của cháu lại phát ra. Mời sư cô vào xem.
            Sư cô đi theo phòng. Mụ dầu nói:
            - Đây là ông Trần Tứ ở phủ Quốc Công.
            Sư cô chào và hỏi thăm. Kim Tu Nghĩa nói:
            - Ông Tứ! Sư cô đây là một người rất có đạo đức.
            Sau khi chào Trần Tứ, sư cô đến giường nhìn Sính Nương. Kim Tu Nghĩa nói:
            - Chúng tôi vừa bàn đến việc lễ giải hạn. Nay không gì bằng mời sư cô cùng giúp.
            - Tôi không biết việc lễ giải hạn nhưng để tôi xem sắc mặt như thế nào.
            Và bước vào ngồi bên giường. Sính Nương vốn biết sư cô. Nàng vừa cất đầu lên nhìn, thấy cái mặt vàng, cái đầu trọc, đột nhiên nhớ đến sư cô ở trong giấc chiêm bao lại càng hoảng sợ, liền kêu lên một tiếng: “Xin lỗi” lấy chăn trùm lên đầu nằm xuống. Sư cô nói:
            - Xem cô có vẻ mệt, tôi xin ra. Sư cô chào mọi người ra khỏi phòng. Mụ dầu đem gạo hàng tháng cho sư cô. Sư cô tay cầm mõ, tay phải cầm túi gạo đi ra.
            Trần Tứ về nhà trọ đưa cho người nhà một ít tiền bảo đi mua nhân sâm và hoàng liên. Bà cụ Đổng là chủ nhà chống gậy ra hỏi:
            - Ông Tứ, người ông mạnh khỏe như vậy thì mua nhân sâm và hoàng liên làm gì? Tôi nghe nói độ này ông chơi bời ở ngoài. Tôi là chủ nhà, lại là một người già cho nên không muốn nói với ông. Nhưng người xưa đã nói: “Cả một chiếc thuyền đầy vàng cũng không trả được cái nợ yên hoa”. Những người đàn bà như thế không phải là người tốt gì đâu. Khi nào ông hết tiền thì người ta quay đít lại với ông ngay thôi. Năm nay tôi đã bảy mươi tuổi. Ngày ngày tôi tụng kinh, niệm Phật, có Quan Âm Bồ Tát chứng giám tôi nỡ nào giương mắt nhìn ông lại bị lừa như thế.
            - Cụ nói phải lắm, tôi biết hết cả rồi. Nhân sâm và hoàng liên này là phủ Quốc Công nhờ tôi mua đấy!
            Vì sợ cụ Đổng nói thêm nên Trần Tứ nói tránh:
            - Tôi cũng sợ chúng nó mua những thứ không tốt, tôi phải thân hành đi mua mới được.
            Bèn đi đến hiệu thuốc, sai người nhà mua nửa cân nhân sâm, nửa cân hoàng liên và bọc như giấu vàng, đem đến lầu Lai Tân. Vừa bước vào lầu thì nghe thấy tiếng đàn tam huyền ở trong. Mụ dầu đã nhờ một người mù đoán số cho Sính Nương. Trần Tứ đem nhân sâm, hoàng liên đưa vào cho mụ dầu và cùng ngồi nghe đoán số. Thầy số nói:
            - Năm nay cô mười bảy. Nhưng lại gặp phải một điều không hay, phạm phải ngôi sao “kế đô”(1) làm cô bực bội không yên. Nhưng việc này không lo ngại gì. Tôi xin nói thẳng, cung bản mệnh của cô nương phạm vào “sao hoa cái”(2) bây giờ cô phải thờ một vị Phật thì mới khỏe được. Sau này cô sẽ lấy chồng quan, sẽ đội mũ phượng và làm bà lớn.
            Nói xong người kia cầm đàn tam huyền vừa đánh vừa hát rồi đứng dậy đi ra. Mụ dầu mời uống trà, đưa ra một đĩa kẹo, một đĩa táo đặt lên bàn, cùng ngồi.
            Người đầy tớ gái rót trà. Trần hỏi:
            - Ông ở Nam Kinh làm ăn ra sao?
            Người mù nói:
            - Nói làm gì việc ấy! Chẳng bằng mọi năm. Mọi năm chỉ có những người mù chúng tôi làm thầy bói thôi. Nhưng dạo này những người mắt sáng cũng làm thầy bói, cướp mất nghề của chúng tôi. Cách đây hai mươi năm, ở Nam Kinh có ông Trần Hòa Phủ. Ông ta ở xa đến, nhưng vừa đến Nam Kinh thì các cụ lớn tranh nhau nhờ đoán số. Nay ông ta đã chết; có một người con trai lấy con gái người láng giềng của tôi. Ngày nào anh ta cũng cãi nhau với bố vợ, làm cho xung quanh hàng xóm không thể ở yên được. Bây giờ tôi về nhà thế nào cũng nghe hắn cãi cọ thôi.
            Nói xong, y đứng dậy cảm ơn rồi ra về. Người kia về nhà đi đến vườn Đông Hoa, vào một con đường nhỏ thì quả nhiên nghe thấy tiếng con trai Trần Hòa Phủ đang cãi nhau với bố vợ. Ông bố vợ nói:
            - Ngày nào anh cũng đi bói, anh kiếm được mấy mươi đồng tiền thì đem mua thịt thủ lợn, bánh ngọt ăn hết, không đưa về nhà lấy một đồng. Anh tưởng tôi nuôi vợ cho anh phải không? Ừ! Nó là con gái của tôi, cái đó còn có lí, nhưng tại sao tiền thịt lợn anh không trả lại cứ hỏi tôi? Tại sao anh lại cứ ầm ĩ suốt ngày? Số tôi sao mà đen như thế?
            - Nếu thầy ăn cái thủ lợn ấy thì phải trả tiền chứ?
            - Thằng này láo, nếu tao ăn thì tao trả tiền. Nhưng chính mày ăn cơ mà!
            - Giả thử con đã trả tiền cho thầy rồi, thầy đem tiền đi thì thầy phải trả tiền chứ.
            - Đồ chó! Mày mắc nợ người ta, sao lại bảo tao tiêu tiền của mày?
            - Nếu như con lợn không đầu thì người ta đến hỏi tiền con làm gì?
            Nghe anh ta nói liều lĩnh như thế, ông bố vợ bèn cầm một cái gậy mà đánh... Người mù lại can. Ông bố vợ giận run lên, nói:
            - Ông ơi! Nó không phải là cái thứ người. Tôi bảo nó thì nó quay lại nói hỗn với tôi. Như thế ai mà không tức!
            - Con có hỗn láo gì đâu? Con không uống rượu, không đánh bạc, cũng không chơi gái, mỗi ngày ngoài lúc bói lại đọc một quyển thơ. Như thế thì có gì là bậy?
            - Mày không lo nuôi vợ lại bắt tao phải nuôi, mày làm khổ tao.
            - Thầy không muốn gả con gái cho con thì thầy cứ đem về nhà.
            Bố vợ mắng:
            - Đồ súc sinh! Tao đem nó về để làm gì!
            - Thầy đem về gả cho người khác cũng được.
            Ông bố vợ giận quá nói:
            - Thằng chết toi này! Trừ khi mày chết đi hay đi tu thì mới làm được thế chứ!
            - Chết thì con chưa chết đâu, nhưng ngày mai thì con đi tu.
            Ông bố vợ tức giận quá nói:
            - Ừ, mai mày cứ đi tu.
            Người mù nghe một hồi lâu thấy hai người nói toàn là chuyện nhảm nhí, nên cũng không can ngăn gì nữa, lần đường về nhà.
            Hôm sau con trai của Trần Hòa Phủ đem bán mũ của mình đi cạo trọc đầu mua một cái mũ hòa thượng rồi đến trước mặt bố vợ chắp tay chào nói:
            - Thưa cụ, bần tăng đến đây để xin từ biệt.
            Bố vợ thấy vậy, nước mắt chảy ròng ròng, trách người con rể một hồi, nhưng biết sự việc đã rồi, không làm sao được nữa bèn bảo con rể viết một tờ giấy li hôn và để con gái cùng sống với mình.
            Từ đấy Trần hòa thượng không bận bịu về việc vợ con, ngày nào cũng có thịt ăn. Mỗi ngày bói được tiền, lại đem mua thịt. Ăn no nê rồi y lên cầu Văn Đức ngồi trước bàn bói chữ để đọc thơ rất ung dung. Được nửa năm như vậy, một hôm, đang đọc sách thì có một người bói chữ là Đinh Ngôn Chí đến. Thấy Trần đang đọc sách, người kia hỏi:
            - Ông mua quyển sách này bao giờ?
            - Mới mua được ba bốn hôm nay thôi. - Đây là những bài thơ xướng họa ở hồ Oanh Đậu. Năm ấy công tử Hồ Tam có hẹn với Triệu Tuyết Trai. Cảnh Lan Giang, Dương Chấp Trung, cùng các vị danh sĩ Khuông Siêu Nhân, Mã Thuần Thượng họp nhau ở hồ Oanh Dậu, chia vần làm thơ. Tôi còn nhớ ông Triệu Tuyết Trai chọn được vần “bát tề”. Ông xem câu mở đầu:
            Hồ tựa diều Oanh(3) bóng xế chiều
            Chỉ một câu ấy, chủ đề của bài đã nổi bật. Những câu sau, câu nào cũng gắn liền với chủ đề, ta thấy rõ không thể đem gán nó vào đề mục của cuộc hội họp nào khác.
            Trần hòa thượng nói:
            - Ông nói như vậy không đúng! Đáng lí ông phải hỏi tôi mới phải. Công tử Hồ Tam không phải là chủ trong cuộc họp mặt ở hồ Oanh Đậu. Buổi tiệc này do hai công tử ở Lâu Phủ, ông Ba và ông Tư làm chủ. Thầy tôi ngày xưa chơi rất thân với hai công tử ở Lâu Phủ. Lúc bấy giờ họp nhau ở hồ Oanh Đậu có ông Dương Chấp Trung, thầy tôi, ông Quyền Vật Dụng, Ông Ngưu Bố Y, ông Cừ Dật Phu, ông Trương Thiết Tý, hai công tử. Lại còn có con trai ông Dương Chấp Trung, cộng lại tất cả là chín người. Thầy tôi nói với tôi, tôi không nhớ hay sao. Ông biết làm sao được?
            - Cứ theo như ý ông thì những bài thơ này của Triệu Tuyết Trai, Cảnh Lan Giang đều do người khác làm chăng? Ông cứ nghĩ xem ông có làm được không?
            - Ông nói như vậy lại càng vô lí nữa. Ông Triệu Tuyết Trai của ông và những người khác làm thơ ở Tây Hồ chứ không phải ở Oanh Đậu.
            - Ông không thấy rõ ràng bài thơ nói “Hồ tựa diều Oanh bóng xế chiều!” như thế không phải là cuộc họp ở hồ Oanh Dậu sao?
            - Đây là tập thơ tuyển tập của các vị danh sĩ. Cứ xem ông Mã Thuần Thượng thì biết. Ông ta thường không làm thơ, nhưng tại sao ở đây lại có một bài của ông ta?
            - Ông nói như người ngủ mê vậy! Ông Mã Thuần Thượng và ông Cừ Dật Phu làm không biết bao nhiêu là thơ, ông làm sao mà biết được!
            - Ừ, dù cho tôi chưa được xem chăng nữa, còn ông thì ông xem rồi. Nhưng ông không biết rằng trong cuộc họp ở hồ Oanh Đậu không có ai làm thơ hết. Không biết ông nghe chuyện này ở đâu rồi đến đây cãi liều với tôi.
            -Tôi không tin! Làm gì có chuyện những người danh sĩ nổi tiếng gặp nhau lại không làm thơ! Có lẽ ông thân sinh ông chưa chắc đã đến họp ở hồ Oanh Đậu. Nếu ông ta có ở buổi họp đó thì ông ta đã là một vị danh sĩ rồi. Và, nếu như thế, thì tôi sợ ông không phải là con ông Trần đâu.
            Trần hòa thượng nóng tiết nói:
            - Ông nói nhảm! Trong thiên hạ có ai nhận người khác làm cha bao giờ.
            - Trần Tư Nguyễn! Mày muốn làm dăm ba câu thơ thì mày cứ làm, nhưng mày không được mạo nhận là con ông Trần Hòa Phủ được!
            Trần hòa thượng nổi giận:
            - Đinh Ngôn Chí! Mày là thứ “con nhà chùa thì quét lá đa”. Mày đi đi! Học lỏm được mấy bài thơ của ông Triệu Tuyết Trai rồi cũng học đòi bàn bạc về các danh sĩ được à!
            Đinh Ngôn Chí nhảy chồm lên nói:
            - Tao nói đến các danh sĩ đấy đã can gì? Cái hạng mày nhất định không thể là một danh sĩ được!
            Hai người nóng tiết nắm lấy cổ áo nhau, bắt đầu đánh nhau. Đinh cứ nhằm cái đầu trọc của Trần mà nện thật đau, lôi Trần đến cầu, Trần hòa thượng mắt hoa lên, lôi Đinh xuống sông. Đinh Ngôn Chí mạnh hơn, đạp Trần một cái. Trần lăn xuống chân cầu, vừa nằm vừa la.
            Vừa lúc ấy, Trần Tứ đến. Thấy một vị hòa thượng nằm lăn dưới đất, không còn ra hình thù gì nữa, Trần đỡ dậy và hỏi:
            - Tại sao thế?
            Trần hòa thượng nhận ra được Trần Tứ liền chỉ lên trên cầu và nói:
            - Cái thằng Đinh Ngôn Chí ngu dốt kia, nó đến nói với tôi rằng cuộc họp ở hồ Oanh Đậu là do Hồ Tam công tử mời. Tôi cắt nghĩa cho nó nghe nó vẫn cứ khăng khăng cố cãi kì được. Nó lại nói ông Trần Hòa Phủ không phải là cha tôi! Ông xem còn trời đất nào nữa.
            - Việc này có gì quan trọng đâu mà phải mắng nhau như thế. Thực ra ông Đinh Ngôn Chí không nên nói ông Trần mạo nhận cha. Nói như vậy là có lỗi.
            Đinh Ngôn Chí nói:
            - Ông Trần, ông không biết đâu. Có lẽ nào tôi lại không biết anh ta là con ông Trần Hòa Phủ? Nhưng anh ta cứ làm ra vẻ một nhà danh sĩ thực là khó coi?
            Trần Tứ cười, nói:
            - Hai ông đều là cùng hội cùng thuyền với nhau, tại sao lại đối đãi với nhau như thế? Nếu ông Trần Tư Nguyễn làm danh sĩ thì những ông Ngu bác sĩ hay Trang Thiệu Quang sẽ làm cái gì? Thôi mời hai ông cùng tôi vào quán uống trà rồi dàn hòa với nhau đi, không nên cãi cọ nữa.
            Trần Tứ kéo hai người vào một quán gần cầu uống trà, Trần hòa thượng nói:
            - Tôi nghe nói người anh em họ ông có mời ông đi Phúc Kiến, tại sao đến nay ông vẫn chưa đi?
            - Chính vì vậy tôi đến đây để nhờ ông bói đấy. Khi nào thì nên đi?
            Đinh Ngôn Chí nói:
            - Thưa ông, cái nghề bói chữ của chúng tôi là cái nghề bịp người ta để kiếm ăn. Ông cứ chọn ngày để đi, không cần bói nữa.
            Trần hòa thượng nói:
            - Đã nửa năm nay tôi không được gặp ông. Ngày thứ hai sau khi tôi đi tu, tôi có làm một bài thơ về việc cạo đầu đi tu, có đưa đến nhà ông, để nhờ ông chỉ giáo. Nhưng ông Đổng là chủ nhà nói rằng ông đi chơi. Mấy lâu nay ông ở đâu? Tại sao không thấy người hầu đâu cả mà đi chơi một mình như vậy?
            - Cô Sính Nương ở lầu Lai Tân thích thơ của tôi cho nên mời tôi đến chơi.
            Đinh Ngôn Chí nói:
            - Một người con gái ở thanh lâu mà cũng biết yêu tài, cái đó thực hết sức phong nhã.
            Và quay lại nói với Trần hòa thượng:
            - Đấy ông xem! Họ là đàn bà mà biết xem thơ. Như vậy, những người danh sĩ gặp nhau ở hồ Oanh Đậu lại không làm thơ sao được!
            Trần Tứ nói:
            - Ông Trần Tứ Nguyễn nói không sai đâu. Ông Lâu Ngọc Đình là bác của tôi, ông ta rất thân với ông Dương Chấp Trung và ông Quyền Vật Dụng. Những người này đều nổi tiếng hay thơ.
            Trần hòa thượng hỏi:
            - Tôi nghe nói ông Quyền Vật Dụng về sau có phạm lỗi gì, không biết kết quả ra sao?
            Trần Tứ nói:
            - Ông ta bị mấy người tú tài vu khống. Nhưng sau quan xét ra thì không có việc gì.
            Nói chuyện một lát, Trần hòa thượng và Đinh Ngôn Chí đều cáo từ ra về.
            Trần Tứ trả tiền xong, một mình đến lầu Lai Tân. Bước vào cửa thấy mụ dầu cùng với một người bán hoa xâu những vành hoa quế. Thấy Trần Tứ, mụ dầu nói:
            - Ông Trần, mời ông ngồi.
            - Tôi phải lên lầu để thăm cô Sính Nương.
            - Hôm nay cháu không ở nhà, cháu đi lầu Khinh Yên, có bữa tiệc ở đấy.
            - Tôi đến đây để từ biệt. Nay mai tôi sẽ đi Phúc Kiến.
            - Ông đi ngay ư? Sau này ông có trở về không?
            Đang nói chuyện thì người đầy tớ gái bưng trà lên. Trần đỡ lấy chén trà, nhưng chỉ uống một ít lại đặt chén xuống vì trà nguội. Mụ dầu hỏi:
            - Tại sao mày không nấu trà mới?
            Và bỏ hoa quế đấy, mụ đi vào nhà trong mắng tên kiếm gái.
            Trần Tứ thấy mụ ta lạnh nhạt với mình nên đi ra. Đi được vài bước thì gặp ngay một người, người kia reo lên:
            - Ông Trần! Ông phải giữ lời hứa chứ? Tại sao ông bắt tôi tìm ông suốt một ngày như thế?
            - Hiệu ông là một hiệu lớn chuyên bán nhân sâm, có mấy mươi lạng bạc mà ông phải lo như vậy? Tôi sẽ trả tiền cho ông ngay.
            - Tôi không thấy mặt hai người đầy tớ của ông đâu cả. Đến nhà ông trọ chỉ thấy bà chủ nhà là cụ Đổng. Ông bảo tôi nói gì với bà cụ già ấy.
            - Ông đừng sợ, “trốn hòa thượng không trốn được chùa”. Thế nào tôi cũng trả tiền cho ông. Ngày mai ông đến nhà tôi.
            - Ngày mai thế nào ông cũng phải ở nhà. Ông đừng bắt tôi phải chạy đi tìm ông nữa đấy nhé.
            Nói xong người chủ hiệu đi về. Trần Tứ về nhà nghĩ bụng:
            - Mình bây giờ nguy rồi. Đầy tớ thì bỏ trốn, mụ dầu thì không cho vào nhà, tiền bạc thì hết sạch, nợ nần thì chồng chất. Ta phải cuốn gói đi ngay Phúc Kiến mới được.
            Và giấu bà cụ Đổng, Trần Tứ đi thẳng. Hôm sau chủ hiệu nhân sâm đến từ sáng sớm, ngồi mãi chẳng thấy bóng ma nào ra. Có tiếng kẹt cửa, một người bước vào, phe phẩy một cái quạt giấy trắng, người bán nhân sâm hỏi:
            - Ông là ai?
            - Tôi là Đinh Ngôn Chí, tôi mới làm một bài thơ đem đến đây nhờ ông Trần chỉ giáo.
            - Tôi cũng đang đợi ông ta.
            Lại ngồi một hồi lâu không thấy ai ra, người bán nhân sâm gõ cửa. Bà cụ Đổng chống gậy đi ra, hỏi:
            - Ông đến đây tìm ai?
            - Tôi đến đòi nợ ông Trần.
            - Ông Trần phải không? Hiện nay chắc ông ta đã đến chùa Quan Âm.
            Người bán nhân sâm kinh ngạc hỏi:
            - Như vậy ông ta có để tiền lại cho cụ không?
            - Ông nói gì lạ vậy? Tiền nhà của tôi ông ấy còn quịt nữa là! Từ khi chết mê chết mệt với con đĩ ở lầu Lai Tân thì ông ta lừa dối hết mọi người để kiếm tiền. Ông còn tưởng ông ta trả lại cho ông mấy lạng bạc sao?
            Người bán nhân sâm nghe vậy như người câm nằm mơ thấy mẹ nói không ra tiếng, giẫm chân đành đạch. Đình Ngôn Chí nói:
            - Ông không nên nóng ruột như vậy. Nếu ông làm thế cũng vô ích. Ông cứ trở về đi. Ông Trần là học trò, không có lẽ ông ta lại lừa ông. Thế nào ông ta cũng trả nợ ông.
            Người kia giẫm chân một hồi. Không biết làm thế nào, đành phải trở về.
            Đinh Ngôn Chí phe phẩy cái quạt đi ra, nghĩ bụng:
            Đàn bà cũng biết xem thơ sao? Ta chưa từng đến “mười sáu lầu” bao giờ, nay bói toán được ít tiền, ta đến đấy xem sao.
            Chủ ý đã định; Đinh về nhà mang một quyển thơ, mặc một bộ đồ đã hơi cũ, đội một cái mũ vuông rồi đến lâu Lai Tân. Tên kiếm gái thấy y có vẻ ngốc bèn hỏi y đến để làm gì. Đinh Ngôn Chí nói:
            - Ta đến đây cùng cô nương của anh nói chuyện thơ.
            - Nếu vậy thì phải cho tiền vào cửa.
            Tên kiếm gái đưa ra một cái cân màu vàng. Đinh Ngôn Chí đưa ra một gói tất cả là hai lạng bốn mươi lăm phân.
            Người kia nói:
            - Còn thiếu năm mươi lăm phân nữa.
            - Để ta gặp cô nương đã rồi ta đưa tiền.
            Đinh Ngôn Chí bước lên lầu thấy Sính Nương đang học đánh cờ. Đinh Ngôn Chí tiến đến vái dài một cái. Sính Nương cố nhịn cười, mời ngồi, hỏi y đến có việc gì. Đinh Ngôn Chí nói:
            - Lâu nay nghe tiếng cô thích thơ, tôi có mấy bài thơ, muốn nhờ cô chỉ giáo.
            - Trong nhà tôi có lệ không đọc thơ suông, ông phải cho tiền tôi mới đọc.
            Đinh Ngôn Chí sờ vào thắt lưng mãi, chỉ còn hai mươi đồng tiền đồng. Y đặt trên bàn, Sính Nương cười rộ:
            - Mấy đồng tiền này thì đưa đến cho bọn kiếm gái ở ngõ Phong Gia ở Nghi Trưng, chứ đừng có làm bẩn bàn của ta. Mau mau đem tiền về nhà mua mấy cái bánh nướng mà ăn.
            Đinh Ngôn Chí thẹn đỏ mặt cúi đầu cầm quyển thơ nhét vào tay áo lặng lẽ xuống lầu về nhà.
            Tên kiếm gái nghe Sính Nương đòi tiền chàng ngốc, bèn bước lên lầu hỏi Sính Nương:
            - Thằng ngốc ấy cho mày mấy lạng? Mày đưa cho tao, tao muốn mua một ít vải đoạn.
            - Thằng ngốc ấy làm gì có tiền! Nó chỉ có hai mươi đồng tiền, cố nhiên là tôi không nhận. Bị tôi cười, nó đã bỏ đi rồi.
            - Mày khéo nói dối lắm. Mày kiếm được một thằng ngốc đã không lấy được tiền của nó lại đuổi nó đi. Mày tưởng ta tin mày sao? Mày kiếm được biết bao nhiêu tiền thưởng của khách thế mà mày chẳng cho tao đồng nào hết!
            - Tôi kiếm cho nhà anh biết bao nhiêu tiền, tại sao anh lại đối đãi với tôi như vậy? Mai đây tôi sẽ lấy một ông quan, làm một bà lớn. Tại sao anh lại để thằng ngốc ấy bước lên lầu. Tôi không mắng anh đã là may rồi, anh lại còn dám mắng tôi như vậy à?
            Tên kiếm gái giận quá, bước đến tát một cái, Sính Nương ngã lăn xuống đất bứt tóc, bứt tai kêu khóc:
            - Tôi làm gì mà anh đối xử với tôi thế này. Nhà anh có nhiều tiền, anh có thể lấy một người khác. Anh để tôi đi đâu kệ xác tôi.
            Và chẳng để ai nói năng gì nữa, Sính Nương vừa mắng mụ dầu vừa la khóc om sòm; rồi định lấy dao để cắt cổ và lấy dây để tự tử. Có bao nhiêu tóc đều cắt hết.
            Mụ dầu sợ quá bảo tên kiếm gái đến khuyên giải mãi nhưng Sính Nương cũng không nghe làm rầm lên. Họ không biết làm thế nào đành phải để Sính Nương đến am Diên Thọ cạo trọc đầu làm đồ đệ của ni cô Bản Tuệ. Chỉ nhân phen này khiến cho:
            Phong lưu mây tản, hiền hào tài sắc hóa thành không
            Củi hết lửa truyền(4) đang chợ thợ thuyền nhiều kẻ lịch.
            Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
            --------------
            (1) (2) Sao “kế đô” là một thứ sao xấu, sao “hoa cái” cũng vậy. Theo mê tín thì các ngôi sao có ảnh hưởng đến số mệnh con người nên phải cúng, giải hạn.
            (3) Hồ giống như cái diều con Oanh.
            (4) Ý nói người tuy chết nhưng đạo vẫn truyền cho đời sau.


            hết: Hồi 54, xem tiếp: Hồi 55
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #51
              Hồi 55

              Thêm bốn khách thuật trước nghĩ sau
              Đàn một khúc cao sơn lưu thủy

              Vào năm Vạn Lịch thứ 23(1) các danh sĩ nổi tiếng ở Nam Kinh dần dần tiêu mòn hết. Những kẻ đồng thời với Ngu bác sĩ, người thì đã già, người thì đã chết, người thì tản mát bốn phương, người thì đóng cửa không lo gì đến thế sự. Những nơi uống rượu, dạo chơi không còn có những người tài cao học rộng. Những người quân tử không còn ai lo đến lễ nhạc, văn chương. Ai thi đỗ làm quan là giỏi, ai thi hỏng là dốt. Những người giàu lại càng xa hoa, những người nghèo lại càng cực khổ. Dù văn có hay như Lý Bạch, Đỗ Phủ, phẩm hạnh có cao như Tăng Sâm, Nhan Uyên(2) cũng không ai thèm đếm xỉa đến. Ở trong các nhà những buổi lễ gia quan(3), đám cưới, đám tang, tế lễ, bọn hương thân không bàn chuyện gì ngoài chuyện ai được thăng, ai đổi đi, ai bị gọi về, ai bị giáng chức. Bọn nhà nho bần tiện tìm mọi cách để làm vừa ý các quan chấm thi. Tuy vậy ở trong đám thường dân cũng có mấy người kì lạ.
              Một người làm nghề viết chữ tên là Quý Hà Niên. Từ nhỏ, anh ta không nhà không cửa, không nghề nghiệp gì, phải vào chùa ở. Thấy Hòa thượng đánh mõ gọi các sư vào ăn, anh ta cũng xách một cái bát, đứng bên cạnh. Hòa thượng cũng không đuổi. Chữ anh ta viết rất đẹp. Anh ta không chịu học lối viết của người xưa, tự đặt ra một lối riêng, cứ viết theo hoa tay. Ai đến nhờ anh ta viết, thì từ ba ngày trước, anh ta ăn chay một ngày, rồi mài mực một ngày, và không để cho người khác mài hộ. Chỉ viết mười bốn chữ câu đối thôi, anh ta cũng mài mất nửa bát mực. Bút anh ta dùng là thứ bút đã hỏng; người ta bỏ đi. Không những thế, lúc anh ta viết, phải có bốn người giữ giấy. Hễ họ giữ giấy không nên hồn là anh ta mắng và đánh. Lại phải đợi khi nào cao hứng, anh ta mới viết, nếu đã không có hứng, thì dù có vương hầu, tể tướng, dù có chồng tiền hàng đống cho anh ta, anh ta cũng không thèm nhìn. Tính anh ta không lo chải chuốt bên ngoài, chỉ mặc một cái áo rách đi đôi giày rách. Mỗi khi viết chữ có tiền thì anh ta mua đồ ăn. Còn thừa lại bao nhiêu, anh ta đem cho những người nghèo chưa hề quen biết, không giữ lấy một đồng nào. Hôm ấy, tuyết xuống rất nhiều. Quý đi thăm một người bạn, lê đôi giày rách vào làm bẩn cả thư phòng. Chủ nhà biết tính anh ta bướng bỉnh, trong lòng không dám tỏ vẻ khó chịu, chỉ nói:
              - Ông Quý, giày của ông rách rồi, sao không mua một đôi giày mới?
              - Tôi không có tiền.
              - Nếu ông viết cho tôi một đôi câu đối, tôi sẽ mua cho ông một đôi giày.
              - Tôi có giày của tôi rồi, lấy của ông làm gì?
              Chủ nhà bực mình vì anh ta bẩn thỉu, chạy vào nhà lấy ra một đôi giày nói:
              - Mời ông đi tạm đôi giày này kẻo chân lạnh.
              Quý Hà Niên tức giận, không từ biệt đi thẳng ra cửa nói:
              - Nhà anh là nơi thế nào? Ta không được mang giày vào nhà à? Ta vào ngồi nhà anh là làm cho nhà anh thêm danh tiếng, chứ ta cần quái gì đến đôi giày của anh.
              Anh ta đi thẳng một mạch đến chùa Thiên Giới, ra vẻ tức giận. Anh ta cùng ăn cơm với vị tăng ở đấy. Ăn xong thấy trong phòng hòa thượng có một hộp mực rất thơm. Quý Hà Niên hỏi:
              - Mực này ông định dùng để viết phải không?
              Hòa thượng nói:
              - Người cháu của Thi ngự sử hôm qua đưa đến cho tôi, tôi giữ đấy để cho một thí chủ khác (4) chứ tôi không viết.
              - Để tôi viết cho một đôi câu đối.
              Và chẳng nói, chẳng rằng, anh ta đi thẳng vào phòng lấy ra một cái nghiên lớn, chọn một thỏi mực, đổ một ít nước rồi ngồi trên giường của hòa thượng mà mài mực. Hòa thượng vốn hiểu tính của anh ta nên cũng cố ý khích để anh ta viết. Đang lúc anh ta mài mực cao hứng thì một người đầy tớ vào báo:
              - Có ông Thi ở cầu Hạ Phù đến chơi.
              Hòa thượng ra đón tiếp. Người cháu của Thi ngự sử bước vào sảnh, nhìn thấy Quý Hà Niên, nhưng hai người không chào nhau, trái lại người kia lại nói chuyện riêng với Hòa thượng. Quý Hà Niên mài mực xong, lấy ra một tờ giấy, trải trên bàn, gọi bốn chú tiểu ra giữ giấy. Anh ta cầm một cái bút đã hỏng chấm đầy mực, nhìn đằng sau tờ giấy một hồi rồi viết ngay một hàng.
              Chú tiểu ở mé bên phải động đậy một cái, Quý cầm cái bút dí vào người làm chú tiểu cúi gập người xuống kêu la. Hòa thượng thấy vậy vội vàng đến. Thấy Quý rất giận dữ, hòa thượng khuyên giải và tự mình giữ giấy để anh ta viết cho xong. Người cháu của Thi ngự sử cũng đến xem, sau đó từ biệt hòa thượng. Hôm sau, một người đầy tớ nhà họ Thi đến chùa Thiên Giới gặp Quý và hỏi:
              - Ở đây có ông Quý làm nghề viết chữ không?
              - Ông muốn hỏi ông ta để làm gì?
              - Ông chủ tôi muốn mời ông ta ngày mai đến viết.
              Quý nghe vậy nói:
              - Được, hôm nay ông ta đi vắng ngày mai tôi nói ông ta đến.
              Hôm sau Quý đến nhà Thi ở cầu Hạ Phù. Anh ta vừa vào cửa thì bị người giữ cửa giữ lại hỏi:
              - Ông là ai lại muốn vào đây?
              - Tôi đến đây để viết.
              Người đầy tớ ở trong nhà chạy ra thấy anh ta liền nói:
              - Té ra anh! Anh cũng biết viết à?
              Rồi đưa anh ta vào phòng khách. Cháu Thi ngự sử ở sau bình phong đi ra, Quý Hà Niên nhìn và mắng:
              - Anh là ai mà dám gọi ta đến viết. Ta không tham tiền của anh, không tham thế lực của anh, cũng không mong nhờ gì anh, tại sao anh dám gọi ta đến viết?
              Anh ta mắng nhiếc một trận làm cho người cháu của Thi ngự sử cứng họng không nói nên lời, cúi đầu bước vào. Quý mắng, một hồi nữa rồi lại trở về chùa Thiên Giới.
              * * *
              Lại có một người bán giấy cuốn(5) tên là Vương Thái. Ông cha ngày trước bán rau ở Tam Bài Lâu, nhưng vì người cha nghèo quá nên phải bán cả vườn đi. Từ bé, anh ta rất thích đánh cờ. Khi người cha mất đi, không có gì sinh nhai, anh ta ngày ngày đến cửa Hồ Cứ bán giấy cuốn để sinh sống. Hôm ấy, ở am Diệu Ý, gần đầm Ô Long, có cuộc hội họp. Bấy giờ đang lúc đầu mùa hạ những lá sen mới nở xoè trên mặt nước. Trong am có nhiều con đường quanh co, có nhiều đình, tạ. Du khách kéo nhau vào xem. Vương Thái đi quanh các nơi đến dưới gốc liễu, có một cái bàn đá hai bên có bốn cái ghế đá. Ở đấy có ba bốn ông quan to đứng nhìn hai người đánh cờ. Một người mặc áo màu lam nói:
              - Ông Mã của chúng ta ngày thành ở Dương Châu, đánh cờ với những người buôn muối, mỗi ván một trăm mười lạng. Ông ta được hơn hai ngàn lạng bạc.
              Một người trẻ tuổi mặc áo màu ngọc thạch nói:
              - Ông Mã là tay cao cờ nhất nước, chỉ có ông Biện là có thể địch nổi, nhưng cũng phải bớt đi hai quân. Còn chúng ta thì già đời cũng không sao theo kịp ông Biện được.
              Vương Thái cũng lách vào nhìn trộm. Người đầy tớ thấy anh ta áo quần rách rưới, lôi thôi lếch thếch, nên không cho vào. Vị quan ngồi ghế chủ nói:
              - Một người như mày thì hiểu cờ sao được.
              - Tôi cũng biết chút ít.
              Vương Thái đứng nhìn một lát rồi cười hì hì.
              Mã nói:
              - Anh dám cười à! Anh có giỏi cờ hơn chúng tôi không?
              - Có lẽ hơn.
              Người chủ nói:
              - Anh là người thế nào mà dám đọ cờ với ông Mã?
              Biện nói:
              - Hắn đã to gan, ăn nói láo lếu, như vậy, ta phải cho hắn một bài học, để sau này đừng có chõ mồm vào khi thấy các cụ nó đang chơi cờ.
              Vương Thái không từ chối, bày các con cờ ra, mời Mã đi trước. Những người đứng bên cạnh đều bật cười. Hai người vừa đi được vài nước thì Mã biết anh ta không phải tay vừa. Đi được nửa ván, Mã đứng dậy nói:
              - Tôi thua.
              Tất cả mọi người đều không hiểu gì.
              Biện nói:
              - Cứ xem thế cờ thì ông Mã hơi kém một ít.
              Mọi người kinh ngạc, giữ Vương Thái lại uống rượu, Vương Thái cười vang nói:
              - Trong đời có gì sướng hơn là đánh cờ mà được. Tôi đánh thắng, trong lòng sung sướng quá, không muốn uống rượu nữa.
              Nói xong cười khanh khách đứng dậy ra đi không quay lại nhìn.
              * * *
              Một người khác làm chủ một tiệm trà tên là Cái Khoan. Xưa kia anh ta làm chủ một hiệu cầm đồ. Năm hai mươi tuổi, gia đình giàu có mở hiệu cầm đồ, lại có ruộng đất và hồ ao. Bà con thân thích đều giàu có, nhưng anh ta cho họ là tục, cả ngày chỉ ngồi trong phòng xem sách, làm thơ, anh ta lại thích vẽ. Anh vẽ rất đẹp cho nên có nhiều họa sĩ và nhiều nhà thơ đến thăm.
              Mặc dầu tranh của họ vẽ không đẹp bằng tranh của mình, thơ làm không hay bằng thơ của mình. Cái Khoan vốn là người yêu quý tài năng, cho nên có ai đến thăm cũng giữ lại uống rượu. Nhà nào có lễ gia quan, cưới xin, đám ma hay có tế tự gì mà không có tiền đến mượn thì Cái Khoan không bao giờ chối từ, sẵn sàng cho hàng trăm, hàng chục lạng bạc. Những người làm công trong hiệu cầm đồ thấy vậy cho anh ta là một người ngốc, tìm cách lừa dối, vì vậy chẳng bao lâu gia tài hết sạch. Ruộng vườn mấy năm liền bị nạn lụt, mùa màng không ra gì. Có những người đến khuyên anh ta bán đi. Người mua ruộng lại cho là ruộng xấu nên chỉ trả năm sáu trăm lạng, mặc dầu ruộng kia đáng giá một ngàn lạng. Cái Khoan không biết làm sao cũng đành phải bán nốt. Bán được bao nhiêu tiền anh ta không biết dùng để buôn bán cứ đem ra tiêu dùng trong nhà. Chẳng được bao lâu, số tiền hết sạch. Cái Khoan không còn gì nữa chỉ sống nhờ số hoa lợi ở đám đất bồi bên sông, không ngờ có nhiều kẻ không có lương tâm phóng hỏa vào những đống củi của anh ta để ở ngoài sân.
              Lại bị vận mệnh không may, bị mấy lần hỏa tai liên tiếp, mấy vạn bó củi ở ngoài sân đều bị thiêu hết. Những bó củi bị đốt dính vào nhau làm thành từng tảng giống như đá ở Thái Hồ, sáng ngời, lóng lánh. Những người đầy tớ đem vài cục cho anh ta xem. Thấy nó hay hay anh ta giữ ở trong nhà. Người nhà nói:
              - Đó là cái vật rủi ro, giữ nó làm gì!
              Anh ta cũng không chịu tin, giữ ở trong nhà chơi. Đầy tớ thấy không có đám đất bồi, cũng từ giã ra đi. Nửa năm sau, việc kiếm ăn hàng ngày khó khăn... Cái Khoan đành phải bán cái nhà lớn để sống trong một cái nhà nhỏ. Lại được nửa năm, người vợ chết. Anh ta lại đem bán nốt cái nhà nhỏ đi kiếm tiền chôn cất vợ. Bấy giờ, Cái Khoan đành phải đem một đứa con trai và một đứa con gái đến ở hai gian nhà trong một cái ngõ hẻo lánh và mở hiệu bán trà. Anh ta dành gian phòng trong cho hai con ở, phòng ngoài bày mấy cái bàn trà, ở mái hiên để cái hỏa lò nấu nước trà. Phía bên phải là quầy hàng, đằng sau là hai vại đựng đầy nước mưa. Sáng nào Cái Khoan cũng dậy thật sớm, nhóm lửa, quạt than, đổ nước vào lò rồi lại đến quầy hàng ngồi xem thơ, ngắm tranh. Trên quầy hàng để một cái bình cắm mấy bông hoa mới nở, bên cạnh bình hoa là mấy quyển sách cũ. Bao nhiêu đồ đạc trong nhà đều bán hết cả, chỉ còn lại mấy quyển sách cổ này không nỡ bán. Khi nào khách vào uống trà thì Cái Khoan đặt sách xuống, bưng ấm và chén trà đến. Tiền kiếm được chẳng bao nhiêu, cứ mỗi ấm trà được một đồng tiền. Mỗi ngày bán được dộ năm sáu mươi ấm trà kiếm được năm sáu chục đồng tiền vừa đủ tiền mua gạo và mua củi.
              Một hôm, Cái Khoan ngồi trong quầy hàng, có một người láng giềng vào nói chuyện. Người láng giềng thấy đến tháng mười mà Cái Khoan vẫn còn mặc áo mùa hạ, bèn hỏi:
              - Tôi thấy ông túng thiếu quá chừng. Ngày xưa bao nhiêu người chịu ân huệ của ông nhưng ngày nay không có ai đến đây. Bà con của ông đều giàu có cả. Tại sao, ông không đến bàn với họ, vay một số vốn kha khá để kiếm kế sinh nhai?
              - Thưa cụ “thế tình ấm lạnh, lòng người đổi thay”. Ngày xưa tôi có tiền, tôi ăn mặc sang trọng, ngay đến bọn đầy tớ cũng ăn mặc chỉnh tề. Bà con đến thăm tôi, không bao giờ tôi lạnh nhạt. Nhưng ngày nay tình cảnh tôi như thế này, nếu tôi đến thăm họ, dù họ không kính tôi thì bản thân tôi cũng thấy chán. Còn như cụ nói ngày xưa tôi có giúp đỡ nhiều người thì những người ấy đều nghèo cả, họ làm gì có tiền để trả lại tôi. Hiện nay họ cũng đi tìm những nơi nào có tiền chứ họ đến đây để làm gì? Nếu tôi đi tìm họ thì tôi chỉ làm phiền họ mà thôi, không ăn thua gì.
              Người hàng xóm thấy anh ta nói chua chát như vậy bèn nói:
              - Hôm nay trời mát mẻ, quán lại vắng khách, chúng ta cùng ra cửa nam chơi đi.
              - Như thế thì hay lắm. Nhưng tôi không có tiền.
              - Tôi có mang theo ít tiền đây, đủ ăn một bữa cơm.
              - Như thế thì làm phiền cụ nhiều quá!
              Cái Khoan bảo con ra coi hàng rồi cùng đi với người láng giềng ra ngoài cửa nam. Hai người ăn một bữa cơm rau trong một hiệu ăn Hồi giáo mất năm phân bạc. Sau khi trả tiền ăn, hai người đi đến chùa Báo Ân. Họ nhìn điện chính, hành lang phía Nam điện thờ Tam Tạng. Sau đó họ đi vào cửa mua một gói kẹo rồi vào trong một quán trà ở sau tháp để uống trà. Người láng giềng nói:
              - Ngày nay khác hẳn ngày xưa, người đi chơi chùa Báo Ân ít hơn trước, họ cũng mua kẹo ít hơn cách đây mười năm.
              - Cụ năm nay đã bảy mươi tuổi, chắc đã thấy nhiều việc. Ngày nay không phải như ngày xưa. Ngày xưa nếu một người biết vẽ như tôi sống trong thời Ngu bác sĩ, lúc còn những người danh sĩ thi đâu đến nỗi phải lo lắng bữa ăn. Có ai ngờ đâu việc đời đến nông nỗi này!
              - Ông không nói thì tôi cũng quên mất. Ở bên trí Vũ Hoa Đài là đề thờ Thái Bá, ngày xưa do ông Trì Hành Sơn ở Câu Dung làm. Bấy giờ có mời Ngu bác sĩ đến tế, thật là náo nhiệt. Lúc ấy tôi hơn hai mươi tuổi, có chen vào xem, rách cả mũ. Nhưng ngày nay đền thờ này không có ai đoái hoài đến. Nhà cửa đổ nát. Chúng ta uống trà xong cùng đến đấy xem một chút đi.
              Ăn một đĩa đậu phụ khô, trả tiền xong, hai người ra đi. Họ trèo lên phía bên trái Vũ Hoa Đài. Xa xa, nhìn thấy đề thờ Thái Bá. Họ bước đến cửa trước thấy năm sáu đứa trẻ con đá cầu ở đấy. Hai cánh cửa lớn đã đổ mất một, nằm lăn xuống đất. Bước vào thấy ba bốn người đàn bà già đang nhặt rau ở ngoài sân. Cửa điện không còn nữa. Tất cả năm gian lầu phía sau đều trống trải, bao nhiêu tấm ván đều mất hết. Hai người đi một vòng. Cái Khoan thở dài nói:
              - Một nơi danh thắng như thế này mà nay đổ nát đến thế, không ai chịu sửa chữa. Những người có tiền chịu tốn hàng ngàn lạng bạc để làm nhà tăng, nhà đạo, thế mà nay chẳng ai đứng ra sửa chữa đền thờ thánh hiền cả.
              - Ngày xưa Trì tiên sinh mua rất nhiều, đồ dùng đều làm theo kiểu đời xưa để vào trong mấy cái tủ lớn ở dưới lầu. Nhưng ngày nay cả đến cái tủ cũng không còn!
              - Cụ nhắc đến việc xưa chỉ làm người ta thêm thương tâm. Chúng ta trở về nhà thì hơn.
              Hai người chầm chậm trở về. Người hàng xóm của Cái Khoan nói:
              - Chúng ta cùng lên đỉnh Vũ Hoa Đài xem đi.
              Hai người ngắm núi bên kia sông, màu xanh cánh trả, nhìn những chiếc thuyền qua lại, cột buồm hiện lên rõ từng chiếc một. Mặt trời dần dần lặn sau núi. Hai người chậm rãi bước xuống núi trở về thành. Cái Khoan lại bán trà được nửa năm. Tháng ba năm sau có người mời Cái Khoan dạy học tiền lương tám lạng.
              * * *
              Một người khác làm thợ may tên là Kinh Nguyên, đã ngoài năm mươi tuổi, mở hiệu may ở đường Tam Sơn. Mỗi ngày, sau khi công việc xong, còn bao nhiêu thì giờ thì anh ta đánh đàn, viết chữ. Tính rất thích làm thơ. Bạn bè và những người quen biết hỏi anh ta rằng:
              - Ông đã là người phong nhã như vậy, tại sao vẫn còn làm cái nghề này? Tại sao ông không chơi với những người ở trong trường học?
              Anh ta đáp:
              - Không phải tôi muốn làm người phong nhã đâu. Chỉ vì tôi thích cho nên tôi thường làm. Còn nghề mọn của tôi là do cha ông truyền lại, có lẽ nào làm nghề may áo quần lại làm nhơ bẩn đến việc đọc sách hay sao? Vả chăng những người ở trong trường học không như chúng ta đâu, đời nào họ lại chơi bời với chúng ta! Nay mỗi ngày tôi kiếm được sáu bảy phân bạc, sau khi ăn no, tôi muốn đánh đàn hay viết chữ là tùy ý tôi. Tôi không muốn giàu có, phú quý, cũng không muốn phải luồn luỵ ai. Cứ sống như thế này, ung dung ngất ngưởng há chẳng sướng sao?
              Khi những người bạn nghe vậy, họ bắt đầu đối đãi với anh ta một cách lạnh nhạt.
              Một hôm Kinh Nguyên ăn cơm xong không có việc gì làm, đến núi Thanh Lương chơi. Núi Thanh Lương là nơi yên tĩnh nhất ở trong thành Nam Kinh. Anh ta có một người bạn già họ Vu ở sau núi. Cụ Vu không đọc sách, cũng không buôn bán, nuôi năm người con, người con đầu bốn mươi tuổi, người con út hơn hai mươi tuổi. Cụ Vu đang bảo các con tưới vườn. Vườn rộng hai ba trăm mẫu, chỗ ở giữa để trống để trồng hoa, trồng cây và đắp một hòn núi giả. Ở đấy cụ Vu dựng mấy gian nhà tranh tự tay mình trồng mấy cây ngô đồng to đến bốn mươi vòng ôm. Sau khi bảo các con tưới vườn xong, cụ Vu vào nhà, nhóm lửa, uống trà, nhìn cảnh vườn xanh mát. Hôm ấy Kinh Nguyên đến chơi. Cụ Vu nói:
              - Đã lâu tôi không gặp ông. Việc làm ăn bận rộn lắm phải không?
              - Vâng! Hôm nay tôi mới có thì giờ rảnh đến đây thăm cụ!
              - Tôi vừa đun một ấm trà, mời ông uống một chén.
              Bèn rót một chén trà. Kinh Nguyên đỡ lấy ngồi uống, nói:
              - Trà này sắc, hương, mùi vị đều tốt. Cụ lấy nước ở đâu mà ngon thế?
              - Chúng tôi ở phía tây thành sướng hơn ở phía nam thành. Giếng nào ở đây cũng uống được.
              - Người xưa nói đến Nguồn Đào, thoát khỏi nợ trần! Cứ theo ý tôi, cần gì có Nguồn Đào. Cứ sống như cụ đây, yên tĩnh, tự tại thì ở ngay thành thị, sơn lâm, cũng là vị tiên sống hiện nay rồi!
              - Phải! Nhưng có một việc tôi không làm được là làm thế này gẩy được đàn cầm như ông cho tiêu khiển đôi chút. Độ này chắc ông chơi đàn hay hơn trước chứ! Có khi nào ông gẩy cho tôi nghe được không?
              - Cái đó dễ lắm. Nếu cụ không sợ rác tai, ngày mai tôi sẽ đem đàn cầm đến. Nói chuyện một hồi Kinh Nguyên từ biệt ra về.
              Hôm sau, Kinh Nguyên thân hành mang đàn cầm đến vườn. Cụ Vu đã đốt sẵn một lò hương thơm ngồi đợi ở đấy. Hai người gặp nhau, nói mấy câu chuyện, cụ Vu đặt đàn cầm của Kinh Nguyên lên ghế đá. Kinh Nguyên ngồi trên chiếu trải dưới đất, cụ Vu ngồi cạnh Kinh Nguyên dần dần lên dây và bắt đầu gẩy đàn. Tiếng đàn thánh thót rung động ngàn cây. Chim chóc đều đỗ trên cành lắng nghe. Đàn một hồi, âm thanh rung chuyển, tiếng nghe não nuột. Nghe đến chỗ sâu xa, bí ẩn, cụ Vu không ngờ thấy buồn bã nước mắt đầm đìa. Kinh Nguyên từ biệt ra về. Từ đấy hai người thường đến nhà nhau chơi.
              * * *
              Các bạn! Có lẽ nào từ nay về sau không còn có vị hiền nhân quân tử nào có thể vào quyển “Sử của Rừng nho” nữa chăng?
              Có bài từ nói:
              Nhớ lúc năm xưa, ta yêu Tần Hoài(6) bèn lìa cố hương Tới sau lò Mai Căn(7) mấy phen ngâm ngợi Trong làng Hoa Hạnh, nhiều lúc thênh thang!
              Phượng đậu cây cao,
              Dế ngâm bụi nhỏ,
              Với người đời cũng chút vênh vang Nay thôi hẳn! Lột trần áo mũ, chân rửa sông Thương(8)
              Ngồi buồn rót chén quỳnh tương!
              Gọi mấy người bạn mới chén một tràng Ôi trăm năm mấy chốc! Cần gì buồn bực. Ngàn thu việc lớn, cần chi lo lường.
              Giang Tả khói mây
              Hoài Nam kỳ cựu(9)
              Chép lại thành thơ, thảy đoạn trường
              Từ nay về sau,
              Lò thuốc, quyển kinh,
              Cửa phật tựa nương.
              HẾT
              ----------------------------
              (1) 1595.
              (2) Những học trò giỏi của Khổng Tử có tiếng về mặt đức hạnh.
              (3) Lễ gia quan: ở Trung Quốc ngày xưa, khi con trai lên hai mươi tuổi thì làm lễ gia quan. Người cha trao mũ cho con ý nói từ nay con đã thành người lớn.
              (4) Thí chủ: người hay biếu nhà chùa lễ vật, tiền bạc.
              (5) Giấy cuốn lại để nhen lửa.
              (6) Sông Tần Hoài ở Nam Kinh.
              (7) Lò Mai Căn: một nơi đẹp ở Nam Kinh, ngày xưa đời Lục triều đúc sắt ở đây. Lò Mai Căn và làng Hoa Hạnh là cổ tích ở huyện Quý Từ tỉnh An Huy.
              (8) Sông Thương, tức là sông Hán Thuỷ ở Hoa Nam.
              (9) Kỳ cựu: bạn cũ.


              hết: Hồi 55, xem tiếp: PHỤ LỤC
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #52
                Phụ lục

                CHẾ ĐỘ KHOA CỬ VÀ NHỮNG CHỨC TƯỚC NHẮC ĐẾN TRONG SÁCH NÀY
                Trong sách này có nói đến một số danh từ chuyên môn khoa cử và chức tước đời Minh, nếu để nguyên sợ khó hiểu. Mặt khác chế độ thi cử và chức tước đời Minh giống hệt như triều Nguyễn trước nên cũng cần trình bày những điểm chính một cách có hệ thống để tiện việc theo dõi.
                Nói chung chế độ thi cử và hệ thống quan lại đời Minh cũng như đời Thanh, lúc tác giả sống. Giữa hai triều đại có sự khác nhau nhưng không đáng kể.
                Việc thi cử gồm ba bực: Viện thí, Hương thí, và những kỳ thi cao nhất ở kinh gồm Hội thí, Phúc thí, Điện thí.
                Viện thí là kỳ thi mở ở huyện. Trước khi mở Viện thí có hai kỳ thi thử. Kỳ thi đầu gọi là Huyện thí do quan huyện chủ tọa. Ai được thi thì gọi là đồng sinh. Ai thi phủ đỗ thì gọi là tú tài. Quan học đạo phụ trách việc thi cử ba năm một lần và phải đi các nơi trong địa hạt của mình để tổ chức hai kỳ thi huyện thí và phủ thí.
                Mục đích của Viện thí là chọn những người tú tài. Ai giỏi được thưởng, ai kém bị phạt, có thể bị đòn. Số tú tài lấy từ tám đến hai mươi tùy theo. Một số tú tài mỗi năm được chọn làm lẫm sinh. Những người này được ưu đãi hơn vì họ có học bổng của chính phủ. Có những kỳ thi riêng của triều đình để chọn một số cống sinh. Những người đỗ cống sinh sau một kỳ thi những có thể ra làm quan.
                Nói chung, những người đỗ tú tài không cần phải giỏi lắm. Cốt nhất là biết viết văn bát cổ là có hy vọng đỗ. Có những người không thi lại nhờ người khác thi thay mình hay đút lót tiền cho quan chấm thi để lấy đỗ tú tài.
                Địa vị xã hội một anh tú tài không phải cao lắm, nhưng vẫn còn hơn địa vị dân thường. Đó là vì họ có thể giao thiệp trực tiếp với các quan. Họ không phải quỳ lạy quan phủ, huyện và có khi có thể xem các quan phủ huyện cùng ngang vai vế với mình. Nhờ vậy họ thường dựa vào đấy để áp bức người khác. Sau khi đỗ tú tài, họ có thể kiếm cách sinh nhai bằng việc dạy học.
                Hương thí thi ở tỉnh một năm sau phú thi, và như vậy là cứ ba năm một lần. Kỳ thi tổ chức ở các tỉnh lỵ cũng như ở Bắc Kinh và Nam Kinh. Thí sinh thi đỗ gọi là cử nhân. Muốn thi hương phải là tú tài, hay cống sinh hay nếu thi hỏng tú tài thì phải có tiền mua chức giám sinh mới được thi hương.
                Trường Quốc tử giám ở Bắc Kinh và ở Nam Kinh là tổ chức giáo dục cao nhất ở đời Minh và đời Thanh. Theo lệ thì phải cống sinh hay con các quan to mới được vào Quốc tử giám. Nhưng ở đời Thanh, miễn là trả một số tiền là được vào, cách này rõ rệt là một phương tiện bệnh vực con nhà giàu và quyền thế vì họ có thể đi thẳng lên công danh và tiền tài không phải qua nhiều bậc thi cử.
                Quan chủ khảo chủ tọa kỳ thi hương, có những quan phó chủ khảo giúp việc. Lại có những người thư ký gọi là mạc khách để đọc các bài trước. Số cử nhân thay đổi tùy tỉnh, từ năm mươi đến hơn một trăm. Đỗ thi hương là một sự kiện quan trọng. Nó có nghĩa rằng thí sinh có thể thi hội và nếu thi hội có hỏng cũng có thể làm quan.
                Thi hội do bộ Lễ tổ chức. Phúc thí do một ông quan đại thần được nhà vua chỉ định làm chủ khảo. Còn Điện thí thì chính nhà vua làm chủ khảo. Trong ba kỳ thi cuối cùng này thì quan trọng nhất vẫn là hội thí. Hội thí ba năm một lần ở Bắc Kinh. Cử nhân ở tất cả các tỉnh đều đến thi. Ai đỗ thì gọi là cống sĩ được chọn để thi Phúc thí. Thường đã thi Phúc thí thì ít ai hỏng. Phúc thú và Điện thí gọi là tiến sĩ chia làm ba giáp là đệ nhất giáp, đệ nhị giáp, đệ tam giáp tiến sĩ. Ba người ở trong đệ nhất giáp là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đệ nhị giáp gồm từ sáu mươi đến bảy mươi người.
                * * *
                Thi dỗ xong các ông tân khoa được bổ làm quan. Những người đỗ đệ nhất giáp thì được vào Hàn lâm biên tu. Có người thi đỗ Điện thí nhưng không chịu làm quan. Địa vị xã hội của họ tuy vậy cũng rất cao.
                Hệ thống quan lại đời Minh gồm chính quyền trung ương và chính quyền địa phương ở tỉnh, phủ, huyện.
                Chính quyền trung ương gồm có những cơ quan trung ương như là Nội các, Lục bộ, Đô sát viên, Thông Chính sứ tư, Hàn Lâm viện, Quốc tử giám.
                Vị quan cao nhất ở trong chính quyền trung ương là Đại học sĩ tương đương với chức tể tướng. Dưới Đại học sĩ có các thị độc học sĩ và Thị giảng lo về việc giấy tờ và các Trung thư để làm các giấy tờ, sắc lệnh. Chức vụ Trung thư là một chức vụ có thể mua được.
                Lục bộ là sáu bộ: bộ Lại, bộ Lễ, bộ Hộ, bộ Binh, bộ Hình và bộ Công. Đó là những cơ quan cai trị chính.
                Đô sát viên lo việc kiểm soát và giám sát các quan lại. Trong Đô sát viện có Tả, hữu đô ngự sử và một số ngự sử có thể để ở kinh hay gửi đi các nơi để điều tra.
                Thông Chính tư là chức quan lo việc giấy tờ công văn ở các địa phương gửi về trung ương. Viện Hàn lâm gồm một số học giả do Chưởng viện học sĩ cầm đầu. Những người khác gọi là Thị độc học sĩ hay Thị giảng học sĩ. Họ có nhiệm vụ thảo các đạo dụ, sắc, luật và các Tu soạn và Biên tu để soạn các bộ sử.
                Từ trung diệp đời Minh trở đi, hầu hết những người ở trong Nội các đều xuất thân ở Hàn lâm ra. Vì vậy, một người vào Hàn lâm là có hy vọng sau này làm tể tướng. Từ thế kỷ XVIII các quan chủ khảo các tỉnh đều lấy trong những người làm Tu soạn hay Biên tu ở Viện hàn lâm.
                Quốc tử giám là cơ quan giáo dục cao nhất. Đứng đầu Quốc tử giám là Tế tửu rồi đến Tư nghiệp.
                Ngoài các chức vụ có thực quyền lại có những chức phong. Những người làm thượng thư được phong làm Thái bảo hay Thiếu bảo, Trung tân đại phu cũng là một chức phong rất cao.
                Ở địa phương chia ra các tỉnh, các đạo, các phủ hay châu và huyện. Ở tỉnh có quan Tổng đốc và quan Tuần vũ cầm đầu. Dưới quan Tuần vũ có quan Bố chánh và quan Án sát. Quan Bố chánh lo việc tài chính và dân sự, quan Án sát lo việc tư pháp. Cứ hai hay ba phủ thì có ông Đạo đài kiểm soát. Cầm đầu một phủ là Tri phủ, cầm đầu một huyện là Tri huyện. Ở làng cầm đầu một làng gọi là Bảo giáp.
                Về việc học, ở phủ, châu, huyện có những học quan lo việc sổ sách học sinh, và các quan khác lo các đạo sĩ và nhà sư.
                Về việc buôn muối ở tỉnh nào sản xuất muối thì cơ quan Diêm vân sứ thu thuế muối và giữ độc quyền về muối. Việc chuyên chở thì do những nhà buôn phụ trách dưới sự kiểm soát của chính phủ. Điều này khiến cho nhiều nhà buôn muối thành triệu phú.
                Về việc binh, cầm đầu những vị trí quân sự là quan đề đốc ở dưới đề đốc có Tham tướng, Thủ bị, Thiên tổng, Bá tổng.
                Những danh từ này thường được nhắc luôn trong sách. Các bạn đọc nên xem lại ở trong bảng phụ lục này thì đỡ lẫn lộn và có thể có ích cho việc hiểu tổ chức xã hội đời Minh Thanh hơn.


                HẾT
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #53
                  Cám ơn nahoku nhiều.

                  Comment


                  • #54
                    Nguyên Văn Bài Viết Của PhuongThuc View Post
                    Cám ơn nahoku nhiều.



                    Cám ơn bạn PT vẫn theo dõi và ủng hộ.



                    Thân,
                    Nahoku
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment

                    Working...
                    X