Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Kiều phần 5: Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư và gặp Từ Hải-Thu Hiền diễn đọc

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Kiều phần 5: Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư và gặp Từ Hải-Thu Hiền diễn đọc

    Truyện Kiều

    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền



    Đoạn Kiều nương nhờ cửa chùa


    Download


    Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
    Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
    2035./ Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
    Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
    Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
    Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
    Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
    2040./ Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
    Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
    Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
    "Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
    "Qui sư qui Phật, tu hành bấy lâu.
    2045./ "Bản sư rồi cũng đến sau,
    "Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh."
    Rày vâng diện hiến rành rành,
    Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
    Xem qua sư mới dạy qua:
    2050./ "Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình.
    "Chỉn e đường sá một mình,
    "Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày."
    Gửi thân được chốn am mây,
    Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
    2055./ Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
    Hương đèn việc trước, trai phòng quen tay.
    Sớm khuya lá bối phiến mây,
    Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
    Thấy nàng thông tuệ khác thường,
    2060./ Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
    Cửa thiền vừa cử cuối xuân,
    Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
    Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
    Có người đàn việt lân chơi cửa già.
    2065./ Giở đồ chuông khánh xem qua,
    Khen rằng: "Khéo giống của nhà Hoạn nương!"
    Giác Duyên thực ý lo lường,
    Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
    Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
    2070./ Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
    "Bây giờ sự đã dường này,
    "Phận hèn dù rủi, dù may, tại người."
    Giác Duyên nghe nói rụng rời,
    Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
    2075./ Rỉ tai mới kể sự lòng:
    "Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
    "E chăng những sự bất kỳ,
    "Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
    "Lánh xa, trước liệu tìm đường,
    2080./ "Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!"


    Chú giải:

    2036. Chiêu ẩn: Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật.
    2038. Trụ trì: Cư trú và chủ trì mọi công việc trong một ngôi chùa.
    2043. Tiểu thiền: Cũng như tiểu tăng, là người đi tu nhỏ mọn (Lời Kiều tự khiêm).
    2044. Qui sư qui Phật: Theo thầy, theo Phật, cũng như nói "qui tăng, qui phật".
    2045. Bản sư: Vị sư thầy mình theo học.
    2046. Pháp bảo: Chỉ các đồ thờ cúng quý giá.
    Sư huynh: Vị sư đàn anh, lời xưng hô giữa các vị sư với nhau.
    2047. Diện hiến: Đem dâng ngay trước mặt.
    2050. Hằng Thuỷ: Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình.
    Hậu tình: Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật.
    2053. Am mây: Do chữ Vân phòng, chỗ nhà sư ở.
    2059. Thông tuệ: Thông minh, sáng suốt;
    2062. Vẻ ngân: ánh bạc, ánh trăng sáng như bạc.
    2064. Đàn việt: Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa.
    Cửa già: Tiếng Phạn gọi chùa là già lam.
    2080. Ở đây ý nói ngồi chờ nước đến chân rồi mới nhảy là khờ dại.




  • #2
    Kiều bị Bạc Bà lừa vào lầu xanh

    Truyện Kiều

    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền



    Đoạn Kiều bị Bạc Bà lừa vào lầu xanh


    Download


    Có nhà họ Bạc bên kia,
    Am mây quen lối đi về dầu hương.
    Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
    Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
    2085./ Những mừng được chốn an thân,
    Vội vàng nào kíp tính gần tính xa.
    Nào ngờ cũng tổ bợm già,
    Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
    Thấy nàng mặn phấn tươi son,
    2090./ Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
    Hư không đặt để nên lời,
    Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
    Mụ càng xuôi giục cho nên
    Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
    2095./ Rằng: "Nàng muôn dặm một thân,
    "Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.
    "Khéo oan gia, của phá gia,
    "Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
    "Kíp toan kiếm chốn xe dây,
    2100./ "Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
    "Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
    "Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
    "Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
    "Cũng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
    2105./ "Cửa hàng buôn bán Châu Thai,
    "Thật thà có một, đơn sai chẳng hề.
    "Thế nào nàng cũng phải nghe,
    "Thành thân rồi sẽ liệu về Châu Thai.
    "Bấy giờ ai lại biết ai,
    2110./ "Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
    "Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
    "Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau."
    Nàng càng mặt ủ mày chau,
    Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
    2115./ Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
    Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
    "Thiếp như con én lạc đàn,
    "Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
    "Cùng đường dù tính chữ tòng,
    2120./ "Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
    "Nữa khi muôn một thế nào,
    "Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
    "Dù ai lòng có sở cầu,
    "Tâm minh xin quyết với nhau một lời.
    2125./ "Chứng minh có đất, có Trời,
    "Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?"
    Được lời mụ mới ra đi,
    Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
    Một nhà dọn dẹp linh đình,
    2130./ Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
    Bạc sinh quì xuống vội vàng,
    Quá lời nguyện hết thành hoàng thổ công.
    Trước sân lòng đã giãi lòng,
    Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
    2135./ Thành thân mới rước xuống thuyền,
    Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai.
    Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
    Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
    Cũng nhà hành viện xưa nay,
    2140./ Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
    Xem người định giá vừa rồi,
    Mối hàng một đã ra mười thì buông.
    Mượn người thuê kiệu rước nàng,
    Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa!
    2145./ Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
    Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
    Đưa nàng vào lạy gia đường,
    Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
    Thoắt trông nàng đã biết tình,
    2150./ Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.
    Chém cha cái số hoa đào,
    Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
    Nghĩ đời mà ngán cho đời,
    Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
    2155./ Tiếc thay nước đã đánh phèn,
    Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
    Hồng quân với khách hồng quần,
    Đã xoay đến thế, còn vần chưa tha.
    Lỡ từ lạc bước bước ra,
    2160./ Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
    Đầu xanh đã tội tình gì?
    Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
    Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
    Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.


    Chú giải:

    2088. Đồng môn: cùng học một thầy, một trường, ý nói Bạc bà cũng một phường chủ lầu xanh như Tú bà.
    2096. Tục ngữ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Ở đây mượn ý ấy để nói Thuý Kiều đã mang tiếng trốn chúa và ăn cắp, thế nào cũng bị người ta dị nghị.
    2097. Oan gia: Bạc bà bịa đặt ra mà nói Kiều là một oan gia kiếp trước vào nhà mình để chực gây tai hoạ cho mình.
    Phá gia: Phá nhà.
    2099. Xe dây: Cũng như xe tơ, nghĩa là lấy chồng.
    2108. Thành thân: Làm lễ hợp hôn, thành vợ chồng.
    Châu Thai: Chỗ Bạc Hạnh buôn bán, thuộc tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
    2118. Cổ ngữ: Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc nhi cao phi, nghĩa là con chim đã bị thương vì cung thì thấy cây cong cũng sợ mà bay cao.
    2123. Sở cầu: Cầu đến, hỏi đến, ý nói muốn cưới làm vợ.
    2124. Tâm minh: Lấy lòng thực mà thề với nhau.
    2132. Thành hoàng thổ công: ý nói Bạc Hạnh thề rằng: xin thành hoàng, thổ công chứng giám tấm lòng của mình đối với Kiều.
    2134. Lễ tơ hồng: Tức là Nguyệt lão, vị thần xe dây cho người nên vợ nên chồng.
    2139. Hành viện: Tên gọi khác của nhà chứa.
    2151. Theo nhà thuật số đời xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm nghề buôn hương bán phấn.
    2157. Hồng quân: Chỉ con tạo. Hồng quần: Cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái.
    2164. Mặt phấn: Mặt trát phấn, ý thân phận người con gái.



    Comment


    • #3
      Kiều gặp Từ Hải

      Truyện Kiều

      Tác giả: Nguyễn Du
      Diễn đọc: Thu Hiền



      Đoạn Kiều gặp Từ Hải


      Download


      2165./ Lần thâu gió mát trăng thanh,
      Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,
      Râu hùm, hàm én, mày ngài,
      Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
      Đường đường một đấng anh hào,
      2170./ Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
      Đội trời đạp đất ở đời,
      Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.
      Giang hồ quen thú vẫy vùng,
      Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
      2175./ Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
      Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.
      Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
      Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
      Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ
      2180./ "Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
      "Bấy lâu nghe tiếng má đào,
      "Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
      "Một đời được mấy anh hùng,
      "Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!"
      2185./ Nàng rằng: "Người dạy quá lời,
      "Thân này còn dám xem ai làm thường!
      "Chút riêng chọn đá thử vàng,
      "Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
      "Còn như vào trước ra sau,
      2190./ "Ai cho kén chọn vàng thau tại mình."
      Từ rằng: "Lời nói hữu tình,
      "Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
      "Lại đây xem lại cho gần,
      "Phỏng tin được một vài phần hay không?"
      2195./ Thưa rằng: "Lượng cả bao dong,
      "Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
      "Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
      "Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!"
      Nghe lời vừa ý gật đầu,
      2200./ Cười rằng: "Tri kỷ trước sau mấy người!
      "Khen cho con mắt tinh đời,
      "Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
      "Một lời đã biết đến ta,
      "Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!"
      2205./ Hai bên ý hợp tâm đầu,
      Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
      Ngỏ lời nói với băng nhân,
      Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
      Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
      2210./ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
      Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
      Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.


      Chú giải:

      2166. Biên đình: Nơi biên ải xa xôi.
      2167. Râu hùm, hàm én, mày ngài: Tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
      2169. Anh hào: Anh hùng hào kiệt.
      2170. Côn: Món võ đánh bằng gậy.
      Quyền: Món võ đánh bằng tay.
      Lược thao: Mưu lược về các dùng binh, do chữ Lục thao, Tam lược là hai pho binh thư đời xưa mà ra.
      2172. Việt Đông: Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
      2174. Ý câu này muốn nhắc đến câu thơ của Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường: Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa duy (chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chi một mái chèo mà đi khắp cả non sông).
      2176. Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
      Lầu hồng: do chữ hồng lâu.
      2179. Tâm phúc tương cờ: Tương cờ tức tương kỳ. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ.
      2182. Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn, trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói: Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không?
      2184. Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường, sống trong vòng giam hãm câu thúc.
      2192. Bình-nguyên quân: Chính tên là Triệu Thắng, một trọng thần nhà Triệu, đời Chiến quốc được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình nguyên quân, nổi tiếng là người hiếu khách. Cao Thích đời Đường có câu: Vị trí can đảm hướng thùy thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên quân, nghĩa là chẳng biết gan mật hướng vào ai, khiến người ta lại nhớ Bình Nguyên quân.
      2196. Tấn Dương: Tên đất, nơi Đường Cao tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói: Thúy Kiều tin tưởng là Từ Hải sẽ làm nên sự nghiệp đế vương.
      2200. Tri kỷ: Người hiểu biết mình.
      2202. Trần ai: Bụi bậm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
      2204. Nghìn tứ: do chữ thiên tứ, nghìn cỗ xe chỉ cảnh giàu sang.
      2205. Ý hợp tâm đầu: Tâm tình và ý nghĩa đều tương đắc với nhau.
      2208. Nguyên ngân: Số tiền bỏ ra khi trước.
      Phát hoàn: Đưa trả lại.
      2210. Bát tiên: Tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lam Thái Hòa, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử. Người ta hay vẽ hình tám vị tiên này trên màn trướng.
      2212. Sánh phượng, cưỡi rồng: Xưa Kính Trọng, người nước Tần, được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: Phượng hoàng vu phi... (Chim phượng hoàng cung bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này dùng ý hai điển ấy để nói Từ Hải, Thúy Kiều đẹp duyên với nhau.



      Comment


      • #4
        Từ Hải tạo dựng nghiệp bá

        Truyện Kiều

        Tác giả: Nguyễn Du
        Diễn đọc: Thu Hiền



        Đoạn Từ Hải tạo dựng nghiệp bá


        Download


        Nửa năm hương lửa đương nồng,
        Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
        2215./ Trông vời trời bể mênh mang,
        Thanh gươm, yên ngựa lên đường thẳng dong.
        Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
        "Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi!"
        Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
        2220./ "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
        "Bao giờ mười vạn tinh binh,
        "Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
        "Làm cho rõ mặt phi thường,
        "Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
        2225./ "Bằng nay bốn bể không nhà,
        "Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
        "Đành lòng chờ đó ít lâu,
        "Chầy chăng là một năm sau vội gì?"
        Quyết lời dứt áo ra đi,
        2230./ Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
        Nàng từ chiếc bóng song mai,
        Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
        Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
        Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
        2235./ Đoái trông muôn dặm tử phần
        Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa;
        Xót thay huyên cỗi xuân già,
        Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
        Chốc đà mười mấy năm trời,
        2240./ Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
        Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
        Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!
        Duyên em dù nối chỉ hồng,
        May ra khi đã tay bồng tay mang.
        2245./ Tấc lòng cố quốc tha hương,
        Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
        Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
        Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
        Đêm ngày luống những âm thầm,
        2250./ Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,
        Ngất trời sát khí mơ màng,
        Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
        Người quen kẻ thuộc chung quanh
        Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
        2255./ Nàng rằng: "Trước đã hẹn lời,
        "Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa."
        Còn đang dùng dắng ngẩn ngơ
        Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la.
        Giáp binh kéo đến quanh nhà,
        2260./ Đồng thanh cùng gửi: "Nào là phu nhân?"
        Hai bên mười vị tướng quân,
        Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
        Cung nga, thể nữ nối sau,
        Rằng: "Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui."
        2265./ Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
        Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng.
        Dựng cờ, nổi trống lên đường,
        Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng kéo sau.
        Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
        2270./ Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.
        Kéo cờ lũy phát súng thành,
        Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.
        Rỡ mình là vẻ cân đai,
        Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
        2275./ Cười rằng: "Cá nước duyên ưa,
        "Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
        "Anh hùng mới biết anh hùng,
        "Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?"
        Nàng rằng: "Chút phận ngây thơ,
        2280./ "Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
        "Đến bây giờ mới thấy đây,
        "Mà lòng đã chắc những ngày một hai."
        Cùng nhau trông mặt cả cười,
        Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
        2285./ Tiệc bày thưởng tướng khao binh
        Thì thùng trống trận, rập rình nhạc quân.
        Vinh hoa bõ lúc phong trần,
        Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.


        Chú giải:

        2214.Trượng phu: ở đây có nghĩa là đàn ông tài giỏi, có chí lớn.
        2219. Tâm phúc tương tri: Biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau.
        2220. Nữ nhi thường tình: cái tính thông thường của đàn bà, con gái.
        2222. Chiêng: Tức chính cổ, chỉ chung chiêng trống. Tinh: Tức tinh kỳ, chỉ chung cờ quạt, tượng trưng cho nghi vệ và đội ngũ quân lính ngày xưa.
        2224. Nghi gia: Do chữ nghi kỳ thất gia ở Kinh Thi, ý nói vợ chồng hoà hợp. Ở đây, hai chữ nghi gia có nghĩa là gái về nhà chồng.
        2230. Bằng: Một loại chim rất lớn. Sách Trang Tử có câu Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý (Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không). Người ta thường dùng hình ảnh ấy để chỉ người anh hùng có địa bàn hoạt động rộng rãi, có mưu đồ sự nghiệp lớn lao.
        2235. Hán Cao tổ quê ở Phần Du, sau khi làm vua có về làng ấy chơi. Người sau bèn dùng hai chữ phần du để chỉ quê nhà, ở đây hợp với chữ tử thành tử phần để chỉ quê nhà.
        2236. Thơ Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Nghĩa là: Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu? Ý nói Kiều nhớ nhà.
        2242. Ý nói : Kiều tuy dứt tình với Kim Trọng, nhưng lòng vẫn không quên chàng, cũng ví như ngó sen bị bẻ gãy, mà sợi tơ vẫn liền với nhau.
        2245. Cố quốc tha hương: Có nghĩa là quê nhà đất khách.
        2250. Lửa binh: Do chữ binh hỏa nghĩa là giặc giã.
        2251. Sát khí: Cái khí dữ dội của cảnh chém giết, thường được dùng để chỉ cảnh binh đao sát phạt.
        2252. Kình ngạc: Hai giống cá to, dữ, thường được dùng để chỉ những tay kiệt hiệt trong đám giặc giã. Giáp binh: áo giáp và binh khí, đây dùng để chỉ quân lính.
        2260. Phu nhân: Tiếng xưng hô đối với vợ các người tôn quí. Đây chỉ Thuý Kiều.
        2263. Cung nga: Gái hầu trong cung, cung nữ. Thể nữ: Loại gái hầu kém cung nữ một bậc, ở đây tác giả dùng những danh từ ấy là có ý xem Từ Hải như một vị đế vương.
        2265. Phượng liễn loan nghi: Xe, kiệu và đồ nghi trượng có chạm khắc thêu vẽ hình loan, chim phượng.
        2266. Hoa quan: Mũ hoa.
        Hà y: áo mầu hồng như ràng mặt trời..
        2269. Hỏa bài: Cái thẻ bài hoả tốc, cầm đi trước để báo tin.
        2270. Nam đình: Triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra.
        Đại doanh: Doanh trại lớn, nơi đóng đại quân của Từ Hải.
        2272. Thân nghênh: Tự mình đích thân ra đón.
        2273: Cân: Khăn (mũ); đai: Cái đai vòng quanh áo lễ. Câu này ý nói Từ Hải lúc này ăn mặc không phải như lần gặp Kiều khi còn hàn vi, mà đã ăn mặc theo cung cách đế vương.
        2275. Cá nước duyên ưa: Do câu ngư thuỷ duyên hài, ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau.
        2284. Trướng mai: Trướng có thêu hoa mai, chỉ phòng nằm của vợ chồng.



        Comment


        • #5
          Kiều báo ân

          Truyện Kiều

          Tác giả: Nguyễn Du
          Diễn đọc: Thu Hiền



          Đoạn Kiều báo ân


          Download


          Trong quân có lúc vui vầy,
          2290./ Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
          "Khi Vô Tích, khi Lâm Truy,
          "Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.
          "Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
          "Chút còn ân oán đôi đường chưa xong."
          2295./ Từ Công nghe nói thủy chung,
          Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
          Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
          Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
          Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
          2300./ Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy,
          Mấy người phụ bạc xưa kia,
          Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
          Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
          Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
          2305./ Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
          Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
          Thệ sư kể hết mọi lời,
          Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy!
          Đạo trời báo phục chỉn ghê,
          2310./ Khéo thay ! Một mẻ tóm về đầy nơi,
          Quân trung gươm lớn giáo dài,
          Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.
          Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
          Vác đòng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
          2315./ Trướng hùm mở giữa trung quân,
          Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
          Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
          Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
          Từ rằng: "Ân, oán hai bên,
          2320./ "Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh"
          Nàng rằng: "Muôn cậy uy linh,
          "Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
          "Báo ân rồi sẽ trả thù."
          Từ rằng: "Việc ấy để cho mặc nàng."
          2325./ Cho gươm mời đến Thúc lang,
          Mặt như chàm đổ, mình dường giẻ run.
          Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
          "Lâm Truy người cũ, chàng còn nhớ không?
          "Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
          2330./ "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
          "Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
          "Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!
          "Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
          "Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
          2335./ "Kiến bò miệng chén chưa lâu,
          "Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
          Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
          Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
          Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
          2340./ Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
          Mụ già, sư trưởng thứ hai,
          Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên,
          Dắt tay mở mặt cho nhìn:
          "Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
          2345./ "Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
          "Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
          "Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
          "Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?"


          Chú giải:

          2297. Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính.
          Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.
          2298. Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.
          2299. Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12.500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân; hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.
          2303. Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.
          2307. Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.
          2308. Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.
          2309. Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.
          2312. Cơ, vệ: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa.
          Thị lập: Đứng chầu.
          Song phi: Dàn làm hai hàng.
          2315. Trướng hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái.
          Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.
          2318. Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là "viên môn".
          2326. Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào.
          Giẻ run: Mình run như chim giẻ.
          2329. Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên văn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.
          2334. Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.
          2341. Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn.
          Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.
          2348. Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.



          Comment


          • #6
            Kiều báo oán

            Truyện Kiều

            Tác giả: Nguyễn Du
            Diễn đọc: Thu Hiền



            Đoạn Kiều báo oán


            Download


            Hai người, trông mặt tần ngần,
            2350./ Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.
            Nàng rằng: "Xin hãy rốn ngồi,
            "Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!"
            Kíp truyền chư tướng hiến phù,
            Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
            2355./ Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
            Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
            Thoát trông nàng đã chào thưa:
            "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
            "Đàn bà dễ có mấy tay,
            2360./ "Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
            "Dễ dàng là thói hồng nhan,
            "Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!"
            Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
            Khấu đầu dưới trướng, lựa điều kêu ca.
            2365./ Rằng: "Tôi chút dạ đàn bà,
            "Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
            "Nghĩ cho khi các viết kinh,
            "Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
            "Lòng riêng riêng những kính yêu;
            2370./ "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
            "Trót lòng gây việc chông gai,
            "Còn nhờ lượng bể thương bài cho chăng?"
            Khen cho: "Thật đã nên rằng,
            "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
            2375./ "Tha ra thì cũng may đời,
            "Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
            "Đã lòng tri quá thì nên,
            "Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay."
            Tạ lòng lạy trước sân mây,
            2380./ Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
            Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao,
            "Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
            "Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
            "Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
            2385./ "Tú Bà với Mã Giám Sinh,
            "Các tên tội ấy đáng tình còn sao?"
            Lệnh quân truyền xuống nội đao,
            Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
            Máu rơi thịt nát tan tành,
            2390./ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
            Cho hay muôn sự tại trời,
            Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta !
            Mấy người bạc ác tinh ma,
            Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
            2395./ Ba quân đông mặt pháp trường,
            Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi.


            Chú giải:

            2353. Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.
            2354. Hậu tra: Chờ để tra xét.
            2377. Tri quá: Biết lỗi, tự mình biết nhận rằng mình có lỗi.
            2382. Hại nhân, nhân hại: Làm hại người thì sẽ bị người hại.
            2387. Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.
            2395. Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.
            2396. Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được



            Comment


            • #7
              Giác Duyên hẹn tái ngộ

              Truyện Kiều

              Tác giả: Nguyễn Du
              Diễn đọc: Thu Hiền



              Đoạn Giác Duyên hẹn tái ngộ


              Download


              Việc nàng báo phục vừa rồi,
              Giác Duyên vội đã gởi lời từ qui.
              Nàng rằng: "Thiên tải nhất thì,
              2400./ "Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
              "Rồi đây bèo hợp mây tan,
              "Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!"
              Sư rằng: "Cũng chẳng mấy lâu,
              "Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
              2405./ "Nhớ ngày hành cước phương xa,
              "Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
              "Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
              "Năm nay là một nữa thì năm năm.
              Mới hay tiền định chẳng lầm,
              2410./ Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
              Còn nhiều ân ái với nhau,
              Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
              Nàng rằng: "Tiền định tiên tri,
              "Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
              2415./ "Họa bao giờ có gặp người,
              "Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân."
              Giác Duyên vâng dặn ân cần,
              Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
              Nàng từ ân oán rạch ròi,
              2420./ Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
              Tạ ân lạy trước Từ công:
              "Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
              "Trộm nhờ sấm sét ra tay,
              "Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
              2425./ "Chạm xương chép dạ xiết chi,
              "Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !"
              Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
              "Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
              "Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
              2430./ "Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha !
              "Huống chi việc cũng việc nhà,
              "Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
              "Xót nàng còn chút song thân,
              "Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
              2435./ "Sao cho muôn dặm một nhà,
              "Cho người thấy mặt là ta cam lòng."
              Vội truyền sửa tiệc quân trung,
              Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.


              Chú giải:

              2398. Từ qui: Từ giã ra về.
              2399. Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có.
              Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.
              2402. Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. Ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.
              2405. Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.
              2406. Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.
              2407. Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.
              2409. Tiền định: Đã định sẵn từ trước.
              2416. Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.
              2425. Chạm xương chép dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: Ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.
              2426. Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
              2427. Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
              2430. Cổ ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
              2432. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc.
              Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.
              2434. Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;
              Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.
              2438. Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.



              Comment


              • #8
                Hết phần 5

                Nghe tiếp Truyện Kiều:
                Diễn đọc Truyện Kiều phần 1
                Diễn đọc Truyện Kiều phần 2
                Diễn đọc Truyện Kiều phần 3
                Diễn đọc Truyện Kiều phần 4
                Diễn đọc Truyện Kiều phần 6
                Diễn đọc Truyện Kiều phần 7



                Last edited by Thu Hiền; 26-07-2008, 11:36 PM.

                Comment

                Working...
                X