Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Kiều phần 6: Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến và đi tu-Thu Hiền diễn đọc

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Kiều phần 6: Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến và đi tu-Thu Hiền diễn đọc

    Truyện Kiều

    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền



    Đoạn Hồ Tôn Hiến mua chuộc Kiều


    Download


    Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
    2440./ Bình uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
    Triều đình riêng một góc trời,
    Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
    Đòi cơn gió quét mưa sa,
    Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
    2445./ Phong trần mài một lưỡi gươm,
    Những loài giá áo túi cơm sá gì!
    Nghênh ngang một cõi biên thùy,
    Kém gì cô quả, kém gì bá vương !
    Trước cờ ai dám tranh cường,
    2450./ Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
    Có quan tổng đốc trọng thần,
    Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
    Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
    Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung.
    2455./ Biết Từ là đấng anh hùng,
    Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
    Đóng quân làm chước chiêu an,
    Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
    Lại riêng một lễ với nàng,
    2460./ Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
    Tin vào gởi trước trung quân,
    Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
    Một tay gây dựng cơ đồ,
    Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
    2465./ Bó thân về với triều đình,
    Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
    Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
    Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
    Sao bằng riêng một biên thùy,
    2470./ Sức này đã dễ làm gì được nhau?
    Chọc trời quấy nước mặc dầu,
    Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
    Nàng thì thật dạ tin người,
    Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
    2475./ Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
    Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
    Bằng nay chịu tiếng vương thần,
    Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
    Công tư vẹn cả hai bề,
    2480./ Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
    Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
    Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
    Trên vì nước dưới vì nhà,
    Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
    2485./ Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
    E dè sóng vỗ hãi hùng nước sa.


    Chú giải:

    2452. Kinh luân: Nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.
    2453. Đẩy xe: Do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.
    2454. Tiện nghi bát tiễu: Tùy tiện mà đánh đẹp.
    Đổng nhung: Trông coi, đốc suất việc quân.
    2457. Chiêu an: Kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.
    2477. Vương thần: Bề tôi của nhà vua.
    2478. Thanh vân: Mây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh.
    2481. Mệnh phụ: Vợ các quan to đời xưa, được vua ban sắc mệnh phong cho làm phu nhân.
    2484. Đắc hiếu: Tròn đạo hiếu với cha mẹ.
    Đắc trung: Tròn đạo trung với vua.
    2485. Chiếc bách: Do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.




  • #2
    Từ Hải tử trận

    Truyện Kiều

    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền



    Đoạn Từ Hải tử trận


    Download


    Nhân khi bàn bạc gần xa,
    Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
    Rằng: "Trong Thánh trạch dồi dào,
    2490./ "Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
    "Bình thành công đức bấy lâu,
    "Ai ai cũng đội trên đầu biết bao.
    "Ngẫm từ dấy việc binh đao,
    "Đống xương Vô-định đã cao bằng đầu.
    2495./ "Làm chi để tiếng về sau,
    "Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
    "Sao bằng lộc trọng quyền cao,
    "Công danh ai dứt lối nào cho qua?"
    Nghe lời nàng nói mặn mà,
    2500./ Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
    Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
    Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
    Tin lời thành hạ yêu minh,
    Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
    2505./ Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
    Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
    Hồ công quyết kế thừa cơ,
    Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.
    Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
    2510./ Lễ nghi dàn trước vác đòng phục sau.
    Từ công hờ hững biết đâu,
    Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
    Hồ công ám hiệu trận tiền,
    Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
    2515./ Đang khi bất ý chẳng ngờ,
    Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
    Tử sinh liều giữa trận tiền,
    Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
    Khí thiêng khi đã về thần,
    2520./ Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
    Trơ như đá vững như đồng,
    Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
    Quan quân truy sát đuổi dài.
    Ù ù sát khí ngất trời ai đang.
    2525./ Trong hào ngoài lũy tan hoang,
    Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
    Trong vòng tên đá bời bời,
    Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
    Khóc rằng: "Trí dũng có thừa,
    2530./ "Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
    "Mặt nào trông thấy nhau đây?
    "Thà liều sống thác một ngày với nhau!"
    Dòng thu như dội cơn sầu,
    Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
    2535./ Lạ thay oan khí tương triền!
    Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
    Quan quân kẻ lại người qua,
    Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
    Đem vào đến trước trung quân,
    2540./ Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
    Rằng: "Nàng chút phận hồng nhan,
    "Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!
    "Đã hay thành toán miếu đường,
    "Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
    2545./ "Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
    "Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?"
    Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
    Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
    Rằng: "Từ là đấng anh hùng,
    2550./ "Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
    "Tin tôi nên quá nghe lời,
    "Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
    "Ngỡ là phu quý phụ vinh,
    "Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
    2555./ "Năm năm trời bể ngang tàng,
    "Dấn mình đi bỏ chiến trường như không.
    "Khéo khuyên kể lấy làm công,
    "Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
    "Xét mình công ít tội nhiều,
    2560./ "Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
    "Xin cho tiện thổ một doi,
    "Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh."
    Hồ công nghe nói thương tình,
    Truyền cho cảo táng di hình bên sông.


    Chú giải:

    2491. Bình thành: Do chữ địa bình thiên thành ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.
    2494. Vô định: Tên một con sông ở biên thùy tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết.
    2496. Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.
    2502. Thúc giáp: Bó áo giáp lại.
    Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.
    2503. Thành hạ yêu minh: Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.
    2506. Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.
    2507. Quyết kế thừa cơ: Quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.
    2508. Lễ tiên binh hậu: Phía trước thì dàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công.
    Khắc cờ: ấn định kỳ hạn.
    Tập công: Đánh úp.
    2509. Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng.
    Tiên phong: Toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ "chiêu phủ" đi trước.
    2512. Đại quan lễ phục: Ăn bận theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục.
    2529. Trí dũng: Trí khôn và sức mạnh.
    2533. Dòng thu: Đây là chỉ nước mắt.
    2535. Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. Ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức.
    2542. Binh cách: Binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.
    2543. Thành toán miếu đường: Mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tôn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã có mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.
    2552. Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.
    2553. Phu quý phụ vinh: Chồng làm nên quan, sang cả thì vợ cũng được vinh hiển.
    2555. Ngang tàng: Cũng có nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất.
    2561. Tiện thổ: Miếng đất xấu.
    2564. Cảo táng: Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: Cũng như di hài.



    Comment


    • #3
      Kiều sa vào tay Hồ Tôn Hiến

      Truyện Kiều

      Tác giả: Nguyễn Du
      Diễn đọc: Thu Hiền



      Đoạn Kiều sa vào tay Hồ Tôn Hiến


      Download


      2565./ Trong quân mở tiệc hạ công,
      Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
      Bắt nàng thị yến dưới màn,
      Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
      Một cung gió thảm mưa sầu,
      2570./ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
      Ve ngâm vượn hót nào tày,
      Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
      Hỏi rằng: "Này khúc ở đâu?
      "Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!"
      2575./ Thưa rằng: "Bạc mệnh khúc này,
      "Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
      "Cung cầm lựa những ngày xưa,
      "Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!"
      Nghe càng đắm ngắm càng say,
      2580./ Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
      Dạy rằng: "Hương lửa ba sinh,
      "Dây loan xin nối cầm lành cho ai."
      Thưa rằng: "Chút phận lạc loài,
      "Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
      2585./ "Còn chi nữa cánh hoa tàn,
      "Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.
      "Rộng thương còn mảnh hồng quần,
      "Hơi tàn được thấy gốc phần là may!"
      Hạ công chén đã quá say,
      2590./ Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
      "Nghĩ mình phương diện quốc gia,
      "Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
      "Phải tuồng trăng gió hay sao,
      "Sự này biết tính thế nào được đây?"
      2595./ Công nha vừa buổi sáng ngày,
      Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.
      Lệnh quan ai dám cãi lời,
      Ép tình mới gả cho người thổ quan.
      Ông tơ thực nhé đa đoan!
      2600./ Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?


      Chú giải:

      2565. Hạ công: Mừng công (Thắng trận).
      2567. Thị yến: Hầu hạ bên bàn tiệc.
      2581. Hương lửa ba sinh: Do chữ tam sinh hương hoả, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại.
      2582. Dây loan: Chỉ việc nối lại nhân duyên vợ chồng.
      2586. Tiểu lân: Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua Hậu chủ nước Tề, đời Nam Bắc triều. Sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ cảm hoài trong đó có câu: Dục trí tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền. Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ýcâu thơ ấy.
      2588. Gốc phần: Do chữ phần du.
      2591. Phương diện quốc gia: vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước.
      2595. Công nha: Chỗ làm việc quan, cũng như công môn đường v.v…
      2598. Thổ quan: Cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.



      Comment


      • #4
        Kiều tự vẫn trên sông Tiền Đường

        Truyện Kiều

        Tác giả: Nguyễn Du
        Diễn đọc: Thu Hiền



        Đoạn Kiều tự vẫn trên sông Tiền Đường


        Download


        Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
        Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
        Nàng càng ủ liễu phai đào,
        Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
        2605./ Đành thân cát lấp sóng vùi,
        Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh!
        Chân trời mặt bể lênh đênh,
        Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
        Duyên đâu ai dứt tơ đào,
        2610./ Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!
        Thân sao thân đến thế này?
        Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
        Đã không biết sống là vui,
        Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
        2615./ Một mình cay đắng trăm đường,
        Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
        Mảnh trăng đã gác non đoài,
        Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
        Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
        2620./ Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền-đường.
        Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
        Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
        Đạm Tiên nàng nhé có hay!
        Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
        2625./ Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
        Một thiên tuyệt bút gọi là để sau.
        Cửa bồng vội mở rèm châu,
        Trời cao sông rộng một màu bao la.
        Rằng: "Từ công hậu đãi ta,
        2630./ "Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
        "Giết chồng mà lại lấy chồng,
        "Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
        "Thôi thì một thác cho rồi,
        "Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!"
        2635./ Trông vời con nước mênh mông,
        Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang.
        Thổ quan theo vớt vội vàng,
        Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi!
        Thương thay cũng một kiếp người,
        2640./ Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
        Những là oan khổ lưu ly,
        Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
        Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
        Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
        2645./ Đời người đến thế thì thôi,
        Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay.
        Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
        Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!


        Chú giải:

        2609. Tơ đào: Cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: "Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?". Nợ đây tức là việc "ép tình mới gán cho người thổ quan".
        2619. Triều: Nước thủy triều, ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.
        2621. Thần mộng: Lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: "Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau".
        2626. Tuyệt bút: Bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.
        2627. Cửa bồng: Cửa thuyền.
        Rèm châu: Rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.
        2635. Con nước: Tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.
        2638. Người xưa thường dùng hai chữ hương ngọc để chỉ phụ nữ.
        2646. Âm cực dương hồi: Khi khí âm đến hết mực thì khí dương lại trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bỉ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.



        Comment


        • #5
          Kiều được Giác Duyên cứu

          Truyện Kiều

          Tác giả: Nguyễn Du
          Diễn đọc: Thu Hiền



          Đoạn Kiều được Giác Duyên cứu


          Download


          Giác Duyên từ tiết giã màng,
          2650./ Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
          Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
          Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
          "Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
          "Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
          2655./ Sư rằng: "Phúc họa đạo trời,
          "Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
          "Có trời mà cũng tại ta,
          "Tu là cội phúc tình là dây oan.
          "Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
          2660./ "Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
          "Lại mang lấy một chữ tình,
          "Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
          "Vậy nên những chốn thong dong,
          "Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
          2665./ "Ma đưa lối quỷ đem đường,
          "Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
          "Hết nạn ấy đến nạn kia,
          "Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
          "Trong vòng giáo dựng gươm trần,
          2670./ "Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
          "Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
          "Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.
          "Oan kia theo mãi với tình,
          "Một mình mình biết một mình mình hay.
          2675./ "Làm cho sống đọa thác đày,
          "Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!"
          Giác Duyên nghe nói rụng rời:
          "Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!"
          Sư rằng: "Song chẳng hề chi,
          2680./ "Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
          "Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
          "Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
          "Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
          "Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
          2685./ "Hại một người cứu muôn người,
          "Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
          "Thửa công đức ấy ai bằng?
          "Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
          "Khi nên trời cũng chiều người,
          2690./ "Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
          "Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
          "Tiền-đường thả một bè lau rước người.
          "Trước sau cho vẹn một lời,
          "Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!"
          2695./ Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
          Lân la tìm thú bên sông Tiền-đường,
          Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
          Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
          Thuê năm ngư phủ hai người,
          2700./ Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
          Một lòng chẳng quảng mấy công,
          Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
          Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
          Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
          2705./ Ngư ông kéo lưới vớt người,
          Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
          Trên mui lướt mướt áo là,
          Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
          Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
          2710./ Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
          Mơ màng phách quế hồn mai,
          Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
          Rằng: "Tôi đã có lòng chờ,
          "Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
          2715./ "Chị sao phận mỏng phúc dày,
          "Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
          "Tâm thành đã thấu đến trời,
          "Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
          "Một niềm vì nước vì dân,
          2720./ "Âm công cất một đồng cân đã già!
          "Đoạn trường sổ rút tên ra,
          "Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
          "Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
          "Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
          2725./ Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,
          Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
          Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
          Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
          Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
          2730./ Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
          Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
          Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
          Một nhà chung chạ sớm trưa,
          Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
          2735./ Bốn bề bát ngát mênh mông,
          Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
          Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
          Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.


          Chú giải:

          2650. Bầu: Quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước.
          Níp: Cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa.
          Vân du: Danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.
          2655. Phúc hoạ đạo trời: Nói người ở đời gặp phúc hay gặp họa đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.
          2668. Thanh lâu: Gái điếm. Thanh y: Gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.
          2670. Hùm sói: Người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Đây muốn nói Kiều phải sống với bọn ác độc.
          2680. Nghiệp duyên: Danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.
          2683. Tình thâm: Do câu phụ tử tình thâm. Câu này ý nói: Thuý Kiều đến bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.
          2687. Thửa công đức: Nghĩa là cứ xem như công đức ấy.
          2688. Túc khiên: Tội lỗi kiếp trước.
          2697. Thảo đường: Nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.
          2699. Ngư phủ: Người làm nghề chài lưới.
          2703. Duềnh ngân: Dòng nước bạc.
          2705. Ngư ông: Ông lão đánh cá, tức "ngư phủ" nói trên.
          2711. Phách quế hồn mai: Do chữ quế phách mai hồn. Hai chữ "quế mai" ở đây dùng cho đẹp lời văn.
          2720. Âm công: Công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết.
          2732. Thảo lưu: Nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường.



          Comment


          • #6
            Kim Trọng quay lại tìm Kiều

            Truyện Kiều

            Tác giả: Nguyễn Du
            Diễn đọc: Thu Hiền



            Đoạn Kim Trọng quay lại tìm Kiều


            Download


            Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
            2740./ Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
            Từ ngày muôn dặm phù tang,
            Nửa năm ở đất Liêu-dương lại nhà.
            Vội sang vườn Thúy dò la,
            Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
            2745./ Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
            Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
            Trước sau nào thấy bóng người,
            Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
            Xập xè én liệng lầu không,
            2750./ Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
            Cuối tường gai góc mọc đầy,
            Đi về này những lối này năm xưa.
            Chung quanh lặng ngắt như tờ,
            Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
            2755./ Láng giềng có kẻ sang chơi,
            Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
            Hỏi ông ông mắc tụng đình,
            Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
            Hỏi nhà nhà đã dời xa,
            2760./ Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
            Đều là sa sút khó khăn,
            May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
            Điều đâu sét đánh lưng trời,
            Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
            2765./ Vội han di trú nơi nao,
            Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
            Nhà tranh vách đất tả tơi,
            Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
            Một sân đất cỏ dầm mưa,
            2770./ Càng cao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
            Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
            Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
            Dắt tay vội rước vào nhà,
            Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
            2775./ Khóc than kể hết niềm tây:
            "Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
            "Kiều nhi phận mỏng như tờ,
            "Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
            "Gặp cơn gia biến lạ dường,
            2780./ "Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
            "Dùng dằng khi bước chân ra,
            "Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
            "Trót lời nặng với lang quân,
            "Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
            2785./ "Gọi là trả chút nghĩa người,
            "Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
            "Kiếp này duyên đã phụ duyên,
            "Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
            "Mấy lời ký chú đinh ninh,
            2790./ "Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
            "Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
            "Chàng Kim về đó con thì đi đâu?"
            Ông bà càng nói càng đau,
            Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
            2795./ Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
            Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
            Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
            Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
            Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
            2800./ Nhận ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
            "Bây giờ ván đã đóng thuyền,
            "Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
            "Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
            "Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?"
            2805./ Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
            Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
            Thề xưa giở đến kim hoàn,
            Của xưa lại giở đến đàn với hương.
            Sinh càng trông thấy càng thương.
            2810./ Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
            Rằng: "Tôi trót quá chân ra,
            "Để cho đến nỗi trôi hoa giạt bèo.
            "Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
            "Những điều vàng đá phải điều nói không!
            2815./ "Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
            "Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
            "Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
            "Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!"


            Chú giải:

            2741. Phù tang: Phù trì đám tang, cũng nghĩa như hộ tang.
            2743. Vườn Thúy: Chính nghĩa là cái vườn có hiên "Lãm Thuý" chỗ Kim Trọng trọ học lúc trước. Nhưng ở đây chỉ nơi hai người đi về tình tự lúc trước.
            2748. Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kỳ ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong. Nghĩa là: mặt người không biết đi đằng nào, hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Cây này dùng câu ý thơ ấy để nói không thấy bóng dánh nàng Kiều ở đâu, chỉ thấy hoa đào vẫn cười với gió đông như năm xưa mà thôi.
            2757. Tụng đình: Sân kiện, nơi xử kiện. Ở đây dùng với nghĩa việc chỉ kiện cáo.
            2765. Di trú: Dời đi ở chỗ khác.
            2779. Gia biến: Tai biến của gia đình.
            2783. Lang quân: Tiếng dùng để chỉ người chồng trẻ và chỉ những người trai trẻ nói chung.
            1788. Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói: nếu như chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù lại.
            2789. Ký chú đinh ninh: Ghi chú, dặn dò cặn kẽ.
            2801. Ván đã đóng thuyền: ý nói Thuý Kiều bây giờ đã về tay người khác.
            2807. Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (Câu 318: Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông).



            Comment


            • #7
              Kim Trọng gá nghĩa với Thúy Vân

              Truyện Kiều

              Tác giả: Nguyễn Du
              Diễn đọc: Thu Hiền



              Đoạn Kim Trọng gá nghĩa với Thúy Vân


              Download


              Nỗi thương nói chẳng hết lời,
              2820./ Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
              Vội về sửa chốn vườn hoa,
              Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
              Thần hôn chăm chút lễ thường,
              Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
              2825./ Đinh ninh mài lệ chép thơ,
              Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
              Biết bao công mướn của thuê,
              Lâm-thanh mấy độ đi về dặm khơi.
              Người một nơi hỏi một nơi,
              2830./ Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
              Sinh càng thảm thiết khát khao,
              Như nung gan sắt như bào lòng son.
              Ruột tằm ngày một héo don,
              Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.
              2835./ Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
              Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
              Xuân huyên lo sợ biết bao,
              Quá ra khi đến thế nào mà hay!
              Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
              2840./ Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
              Người yểu điệu kẻ văn chương,
              Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
              Tuy rằng vui chữ vu quy,
              Vui này đã cất sầu kia được nào!
              2845./ Khi ăn ở lúc ra vào,
              Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
              Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
              Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
              Có khi vắng vẻ thư phòng,
              2850./ Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
              Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
              Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
              Dường như bên nóc bên thềm,
              Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
              2855./ Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
              Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.


              Chú giải:

              2824. Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói: Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ chồng Vương ông như cha mẹ mình.
              2828. Lâm-thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở đó, nên Kim Trọng mới sai người đến đây hỏi thăm tin Kiều.



              Comment


              • #8
                Kim Trọng điều tra tung tích Kiều

                Truyện Kiều

                Tác giả: Nguyễn Du
                Diễn đọc: Thu Hiền



                Đoạn Kim Trọng điều tra tung tích Kiều


                Download


                Những là phiền muộn đêm ngày,
                Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
                Chế khoa gặp hội trường văn.
                2860./ Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.
                Cửa trời rộng mở đường mây,
                Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
                Chàng Vương nhớ đến xa gần,
                Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
                2865./ Tình xưa ân trả nghĩa đền,
                Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
                Kim từ nhẹ bước thanh vân,
                Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
                Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
                2870./ Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?
                Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
                Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
                Vâng ra ngoại nhậm Lâm Truy,
                Quan sơn nghìn dặm thê nhi một đoàn.
                2875./ Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
                Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.
                Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
                Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
                Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
                2880./ Nghe lời chàng cũng hai đường tin, nghi.
                Nọ Lâm Thanh với Lâm Truy,
                Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
                Trong cơ thanh khí tương tầm,
                Ở đây hoặc có giai âm chăng là?
                2885./ Thăng đường chàng mới hỏi tra,
                Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
                "Sự này đã ngoại mười niên,
                "Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
                "Tú bà cùng Mã Giám sinh,
                2890./ "Đi mua người ở Bắc kinh đưa về.
                "Thúy Kiều tài sắc ai bì,
                "Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
                "Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
                "Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.
                2895./ "Phong trần chịu đã ê chề,
                "Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
                "Phải tay vợ cả phũ phàng,
                "Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa.
                "Bựt mình nàng phải trốn ra,
                2900./ "Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
                "Thoắt buôn về thoắt bán đi,
                "Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
                "Bỗng đâu lại gặp một người,
                "Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh.
                2905./ "Trong tay mười vạn tinh binh,
                "Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy.
                "Tóc tơ các tích mọi khi,
                "Oán thì trả oán ân thì trả ân.
                "Đã nên có nghĩa có nhân,
                2910./ "Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
                "Chưa tường được họ được tên,
                "Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường."
                Nghe lời đô nói rõ ràng,
                Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh.
                2915./ Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
                Chồng con đâu tá tính danh là gì?
                Thúc rằng: "Gặp lúc lưu ly,
                "Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
                "Đại vương tên Hải họ Từ,
                2920./ "Đánh quen trăm trận sức dư muôn người
                "Gặp nàng khi ở Châu Thai,
                "Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.
                "Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
                "Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
                2925./ "Đại quân đồn đóng cõi đông,
                "Về sau chẳng biết vân mồng làm sao."


                Chú giải:

                2859. Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ.
                2860. Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi đỗ.
                2861. Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là cửa nhà vua.
                Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân lộ, ý nói đường công danh, sĩ hoạn.
                2862. Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa tiến sĩ được dự tiệc và xem hoa ở đây.
                Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê nhà. Xem chú thích
                2235. Câu này tả cảnh vinh hoa của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh qui.
                2864. Chu tuyền (hay chu toàn): Làm cho được tròn vẹn. Câu này ý nói: Vương quan làm rể họ Chung.
                2870. Ngọc đường: Đời Tống Thái Tông, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ Ngọc đường thự. Đời sau bèn dùng những chữ Kim mã ngọc đường để nói chung cảnh quan gia phú quý.
                2873. Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không phải ở huyện nhà).
                2874. Thê nhi: Vợ con.
                2875. Phu tử Tiện đời Xuân thu, làm quan huyện, thường hay gảy đàn, người sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm đường.
                2876. Triệu Biên đời Tống, đi làm quan, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, tỏ ra người liêm khiết cao thượng.
                2883. Thanh khí: Câu này ý nói: Thúy Vân, Thúy Kiều là hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông với nhau.
                2884. Giai âm: Tin tốt.
                2885. Thăng đường: Ra ngồi làm việc ở công đường.
                2893. Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết.
                2894. Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà.
                Phải lừa chỉ việc sợ bị Sở Khanh lừa đưa đi trốn.
                2907. Tóc tơ: Kẽ tóc chân tơ, ý nói hỏi rất tỷ mỷ.
                2922. Thiên tài: Tài trời phú cho.
                2924. Động địa kinh thiên: Sôi trời nổi đất.
                2926. Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin tức, manh mối.



                Comment


                • #9
                  Kim Trọng hay tin Kiều thác trên sông Tiền Đường

                  Truyện Kiều

                  Tác giả: Nguyễn Du
                  Diễn đọc: Thu Hiền



                  Đoạn Kim Trọng hay tin Kiều thác trên sông Tiền Đường


                  Download


                  Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
                  Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
                  Xót thay chiếc lá bơ vơ,
                  2930./ Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
                  Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
                  Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
                  Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
                  Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
                  2935./ Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
                  Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
                  Bình bồng còn chút xa xôi,
                  Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
                  Rắp mong treo ấn từ quan,
                  2940./ Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
                  Dấn mình trong án can qua,
                  Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
                  Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
                  Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
                  2945./ Những là nấn ná đợi tin,
                  Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
                  Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
                  Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
                  Kim thì cải nhậm Nam-bình,
                  2950./ Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú-dương.
                  Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
                  Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.
                  Xảy nghe thế giặc đã tan,
                  Sóng êm Phúc-kiến lửa tàn Chiết-giang.
                  2955./ Được tin Kim mới rủ Vương,
                  Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa
                  Hàng-châu đến đó bây giờ,
                  Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
                  Rằng: "Ngày hôm nọ giao binh,
                  2960./ "Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
                  "Nàng Kiều công cả chẳng đền,
                  "Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
                  "Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
                  "Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!"
                  2965./ Thương ôi! không hợp mà tan,
                  Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
                  Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
                  Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
                  Ngọn triều non bạc trùng trùng,
                  2970./ Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
                  Tình thâm bể thảm lạ điều,
                  Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?


                  Chú giải:

                  2927. Tiêu hao: Cùng nghĩa với tăm hơi, tin tức.
                  2937. Bình: Bèo, Bồng: Cỏ bồng. Hai vật này thường hay trôi nổi theo nước và gió. Ở đây để chỉ tấm thân phiêu bạt của Kiều.
                  2938. Đỉnh chung: Đỉnh: Cái vạc để nấu thức ăn. Chung: Cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung ở đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú quý.
                  2939. Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn tại công đường mà bỏ về, không làm quan nữa.
                  2947. Năm mây: Do chữ Ngũ vân, ý nói tờ chiếu có vẽ mây năm sắc; chiếu trời là chiếu nhà vua.
                  2948. Khâm ban: Chữ khâm, nguyên có nghĩa là kính, sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví dụ: như nói khâm sai, khâm định...
                  Sắc chí: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
                  2949. Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác. Nam-bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền-đường và Hàng-châu.
                  2952. Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi nhậm chức.
                  2954. Phúc-kiến, Chiết-giang: Hai tỉnh phía đông nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của Từ Hải.
                  2957. Hàng-châu: Tên phủ, nay là thủ phủ tỉnh Chiết-giang.
                  2960. Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch.
                  Thu linh: thu khí thiêng, ý nói chết.
                  2962. Thổ tù: Người tù trưởng ở địa phương, cùng như chữ Thổ quan.
                  2963. Ngọc và châu: Thường được dùng để chỉ cái đẹp, cái quý giá:
                  "Gieo ngọc trầm châu" ở đây chỉ việc Thuý Kiều trầm mình.
                  2967. Chiêu hồn: Gọi hồn.
                  Thiết vị: Đặt bài vị viết tên hiệu người chết mà thờ cúng.
                  2968. Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan.
                  2970. Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là phong thái nhẹ nhàng của cô gái đẹp.
                  2972. Tinh vệ: Tên một loài chim nhỏ, sống ở bãi bể. Theo sách Thuật dị ký: Xưa con gái vua Viêm đế chết đuối ở biển, hồn hoá thành con chim tinh vệ, hàng ngày ngậm đá ở núi Tây Sơn vứt xuống biển để hòng lấp biển. Ở đây ví Thuý Kiều trầm mình nên mượn điểm ấy.



                  Last edited by Thu Hiền; 03-02-2009, 08:04 AM.

                  Comment


                  • #10
                    Hết phần 6

                    Nghe tiếp Truyện Kiều:
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 1
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 2
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 3
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 4
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 5
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 7



                    Last edited by Thu Hiền; 26-07-2008, 11:38 PM.

                    Comment

                    Working...
                    X