Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Pháp y - mổ tử thi

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Pháp y - mổ tử thi

    Pháp y - mổ tử thi



    Cái chết không có điểm rõ rệt nào ; đó không phải là một khoảnh khắc, mà là một tiến trình biến đổi dần gồm nhiều giai đoạn khác nhau, thời điểm mà ngưỡng của trạng thái vĩnh viễn không hồi phục. Hay nói khác đi, công việc sinh học tương ứng với tiến trình chết dưạ trên sự tồn tại của một trạng thái tới hạn thoáng qua mà những giới hạn về thời gian vẫn không chắc chắn.

    Việc xác định cái chết đang diễn ra một cách hạn định. Sau khi ngưng hô hấp, rồi ngưng tim, cuối cùng là tiêu chuẩn của chết não. Đến mức ngày nay người ta chia ra làm nhiều loại chết : chết lâm sàng, chết não, chết sinh lý và chết sinh học,...

    Phải chăng ở một vũ trụ khác, nơi mà ở đó có nhiều dạng ý thức khác nhau, và có nhiều mức độ về ý thức khác nhau? Nếu điều đó là thật, thì khi đó cái chết chỉ là một sự thay đổi về mức độ ý thức.
    Về mặt tâm thần học, thì cái chết được định nghiã như: «trạng thái mà ở đó con người không thể quay ngược lại được».
    Vậy cái chết bắt đầu như thế nào ?

    Người ta có thể xem tất cả những sinh vật sống như được cấu tạo từ những chất không phải sống theo một cách đặc biệt, nhưng mọi giai đoạn giữa sự sống và cái chết dường như tồn tại.

    Thậm chí tác giả L. Watson đề nghị một tên gọi «trạng thái vô thức», đây là trạng thái không thể xác định được giữa sự sống và cái chết.
    Một tổ chức phức tạp như con người, thì quá trình chết sinh học xảy ra từ từ : nếu tim ngừng đập, ngừng thở, não ngừng hoạt động …nếu các mối liên kết thần kinh không còn nữa, thì chuyển hoá của nhiều tế bào vẫn còn tiếp tục trong một thời gian. Do đó nếu như toàn bộ cơ thể chết đi, nhưng một số phần tử bên trong cơ thể vẫn tiếp tục còn sống một cách riêng lẽ và tự động… vậy thì cái chết bắt đầu ở đâu ?
    Dù nguyên nhân gây ra cái chết là gì đi chăng nữa như chết ngạt ( ngạt thở, xiết cổ, liệt hô hấp...), ngất(ngưng tim, xuất huyết...), hôn mê (do ngộ độc, chấn thương sọ não, do thuốc...) Những dấu hiệu cho biết cái chết xuất hiện dần dần như : hạ thân nhiệt, cơ thể cứng đờ, tím( thường sau 12 giờ), mất nước, thối rữa...Người ta nhận thấy rằng có sự chuyển biến rõ rệt từ sự sống sang cái chết, đầu tiên xuất hiện ở một số cơ quan, sau đó toàn bộ cơ thể.

    Những dấu hiệu lâm sàng được coi như là chết ( như ngừng hô hấp, ngừng tim, ngừng hoạt động của não...) thật ra đây chỉ là những dấu hiệu âm tính của sự sống, và chỉ trở thành cái chết khi những dấu hiệu này vĩnh viễn không hồi phục.

    Một người thôi miên họ có thể tự làm cho ngưng thở, ngưng tim và hạ thân nhiệt thoáng qua mà không ảnh hưởng gì. Những tu sĩ ngồi thiền có thể giảm 20% mức tiêu thụ oxy khi họ đang tĩnh tại, những người tập yoga môn hathayoya họ có thể điều khiển cho tim và hô hấp ngừng hoạt động đến 10 phút theo ý muốn. Người ta nhận thấy có những trường hợp sống sót sau khi thân nhiệt hạ xuống còn 24°C.

    Não ngừng hoạt động trên 6 phút là kể như không hồi phục, nhưng điều này không chính xác khi đo trên điện não đồ(EEG). Người ta biết rằng hoạt động bình thường của não đòi hỏi phải có một sự kích thích võ não liên tục bằng những xung động thần kinh, mà những xung động này phụ thuộc vào luồng thông tin được truyền liên tục từ những giác quan; nếu như những xung động này trở nên quá hạn chế hay quá đơn điệu, thì cách ứng xử của bộ não sẽ trở nên bất thường. Loài người chỉ « sống tốt » khi ở trong môi trường luôn thay đổi( và thường đó là vấn đề của những người già sống cô độc hay bị bỏ rơi).

    Trạng thái “vô thức"

    Lyall Watson đã đưa ra từ này để nói lên trạng thái trung gian giữa sự sống và cái chết, trạng thái vô định trong đó các tế bào đã mất đi sự nhận diện của loài, mà trước đây vốn thuộc đặc tính chuyển hoá của mình khi còn sống..
    Những tế bào này thật sự không còn sống nữa, vì chúng thiếu đặc tính tổ chức của loài, và những tế bào này thật sự không chết vì nó vẫn còn hoạt động. Chính trong trường hợp chất liệu đã chết, thay thế một chức năng cho trước ở một cơ thể sống ( như lông, giác mạc, móng)
    Vì vậy cái chết là một ranh giới khó xác định và thay đổi.

    Sự mất ý thức

    Một khi sinh vật chết đi, chúng phải nếm qua « một cái gì đó » : ở đó «chúng không còn là chúng nữa », cái nhìn của chúng trở nên vô hồn… Thân xác sẽ biến mất sau này, và thể xác này chỉ là chất liệu cấu tạo nên sinh vật, chỉ có dạng vật chất này là tồn tại. Nhưng sinh vật này sẽ tồn tại theo một cách khác, sự thông minh, tình cảm và sự «hiện hữu” của chúng…

    Về mặt tâm lý và sinh học, người ta “cảm nhận được” cái chết, và ở loài vật cũng vậy. Ở loài động vật linh trưởng, ngay khi thành viên trong bầy của chúng chết, thì những con còn lại trong bầy cũng “cảm nhận được” cái chết..


    BS.Phùng Hoàng Đạo

  • #2
    Mổ tử thi (Phần 1)


    Định nghĩa

    Mổ tử thi là sự khám nghiệm tử thi chủ yếu nhằm xác định nguyên nhân tử vong cũng như đánh giá tình trạng các bệnh hiện hữu. Trong những học viện thì Mổ tử thi luôn là một đòi hỏi cho công tác giảng dạy và nghiên cứu.


    Các trường hợp Mổ tử thi nhằm giám định pháp y là những trường hợp được sự cho phép của pháp luật nhằm xác định nguyên nhân tử vong của một tai nạn, một án mạng, tự vẫn hay một tình huống tự nhiên. Thuật ngữ “Mổ tử thi”-autopsy bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “autopsia” nghĩa là: “thấy tận mắt”.

    Lịch sử của Mổ tử thi

    Những nhà giải phẫu học đầu tiên được xem như là những thợ săn, tên đồ tể và người đầu bếp cổ đại khi phải nhận biết các cơ quan và nhận biết xem chúng có ăn được hay không. Ở thời đại Babylon, có lẽ khoảng 3500 năm trước công nguyên, Mổ tử thi được thực hiện trên thú vật không phải để nghiên cứu bệnh tật mà để dự đoán tương lai bằng cách tiếp xúc với các lực lượng siêu nhiên. Ruột và gan được tin là chứa đựng các thông tin từ các bậc tối cao.

    Galen (131-200 sau công nguyên), môn đồ của Hippocrates thời Hy Lạp cổ đại, đã thực hiện phẫu thuật trên động vật và người. Ông đã xác định được rằng thuyết của Hippocrates về bệnh là do bốn dịch thể tuần hoàn trong cơ thể (đờm, máu, dịch vàng, dịch đen) là đúng. Galen là một nhân vật được kính trọng, quyền lực và cố chấp đã thiết lập hệ tư tưởng y khoa cho thời đại ông và cho hàng trăm năm sau đó. Người ta cho rằng học thuyết bốn thể dịch đã làm tê liệt ngành y khoa trong vòng khoảng 1400 năm.

    Nhìn chung, trước năm 1700 có những quan điểm tiêu cực về Mổ cơ thể người. Người Ai Cập, Hy Lạp, Roma và Châu Âu thời trung cổ thực hiện Mổ xẻ cho mục đích tôn giáo hoặc giải phẫu học nhưng không theo một kiểu có hệ thống nào cả. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ đáng chú ý. Vào cuối thế kỹ 13 hội luật gia được đặt tại trường đại học Bologna và cho phép thực hiện Mổ tử thi để giải quyết các vấn đề pháp luật. Do đó, các trường hợp Mổ tử thi đầu tiên là nhằm mục đích phục vụ luật pháp. Vào giai đoạn cuối thế kỹ 15 ở Padua và Bologna nước Ý, nơi trường đại học y khoa đầu tiên của thế giới, Đức giáo hoàng Sixtus đệ tứ đã ban hành sắc luật cho phép sinh viên y khoa Mổ xẻ trên cơ thể người. Trước đó, từ những năm đầu của thế kỉ 14, việc sinh viên ngành giải phẫu học Mổ xẻ trên người được xem là một tội ác và bị truy tố trước pháp luật.

    Đến thế kỷ 16, Mổ tử thi nhìn chung được sự chấp thuận của nhà thờ Thiên chúa giáo, đánh dấu cho sự phát triển hướng tiếp cận có hệ thống trong nghiên cứu bệnh học người. Trong khi có rất nhiều tên tuổi lớn trong Mổ tử thi như Vesalius (1514-1564), Pare (1510-1590), Lancisi (1654-1720) và Boerhaave (1668-1739), thì chính Giovanni Bathista Morgagni(1628-1771) mới được xem là nhà Mổ tử thi vĩ đại đầu tiên. Trong suốt hơn 60 năm quan sát của mình, Morgagni luôn tin vào sự tương quan giữa những phát hiện bệnh học với các triệu chứng lâm sàng, đánh dấu lần đầu tiên Mổ tử thi được xem là công cụ chính góp phần vào những hiểu biết về bệnh tật trong y khoa.


    Một số sử gia cho rằng thời kỳ hoàng kim của Mổ tử thi trong ngành đào tạo Y khoa là suốt thế kỉ 19. Vào đầu thế kỷ này thì Allgemeine Krankenhaus ở Vienna được xem như là trung tâm y khoa hàng đầu của phươngTây bởi tầm vóc của học viện về bệnh học do Karl Rokitansky (1804-1878) điều hành. Gần như tất cả bệnh nhân sau khi tử vong đều được đưa đến học viện Rokitansky để Mổ tử thi (ngày nay học viện này vẫn còn tại Vienna). Người ta nói rằng Rokitansky đã giám sát hơn 70.000 ca Mổ tử thi và bản thân ông đã thực hiện hơn 30.000 ca, với trung bình hai ca một ngày liên tục 7 ngày trong tuần rồi cứ như vậy kéo dài suốt 45 năm. Rokitansky đã nhấn mạnh hướng tiếp cận có hệ thống mà gần như là một nghi thức về Mổ tử thi nhằm khám một cách chi tiết cho tất cả các bệnh nhân. Không giống như Morgagni, Rokitansky vì mục đích khách quan nên không chú ý tới bệnh sử của các bệnh nhân. Chính vì quan điểm này cũng như sự do dự trong ứng dụng kính hiển vi một cách thường qui mà rất nhiều thuyết về bệnh tật của ông mắc nhiều sai lầm.

    Rudolph Virchow(1821-1902), một nhà chính khách và giải phẫu bệnh lỗi lạc, đương thời là một người chống đối trẻ tuổi về quan điểm của Rokitansky. Không giống như Rokitansky, ông phát triển việc dùng kính hiển vi và có ảnh hưởng rất lớn đối với việc áp dụng kính hiển vi một cách có hệ thống trong nghiên cứu bệnh tật. Virchow đã phát triển học thuyết sử dụng nghiên cứu bệnh học ở cấp độ tế bào để làm nền tảng của bệnh tật để cuối cùng bác bỏ thuyết thể dịch của Hippocrates và Galen. Ở nhiều góc độ thì Virchow có thể được xem như là nhà sinh học phân tử đầu tiên. Dưới thời của ông, Berlin đã thay thế Vienna để trở thành trung tâm đào tạo y khoa hàng đầu.
    Rất nhiều bác sĩ sau khi được đào tạo tại Berlin đã trở thành nhà lãnh đạo y khoa ở Bắc Mỹ. Bá Tước Wiliam Osler là người lỗi lạc nhất trong số các bác sĩ trên làm việc ở Mỹ và Canada. Không có gì phải bàn cải khi xem Osler là bác sĩ đáng kính trọng và được sùng bái nhất Nam Mỹ thời bấy giờ. Ông đã học tập với Rokitansky và Virchow do đó quá trình học tập của ông dựa chủ yếu vào nghiên cứu Mổ tử thi. Osler không chỉ tự tay thực hiện Mổ tử thi và qua đó làm công tác giảng dạy mà còn ghi chép lại những chỉ dẫn rất chi tiết về kết quả Mổ tử thi của chính bản thân. Trong lần nói về minh, Osler nói với một người bạn rằng: ”Tôi đã theo dõi trường hợp này trong hai tháng và tôi tiếc rằng mình sẽ không còn nhìn thấy khám nghiệm tử thi nữa”. Và đúng như những gì đã dự đoán trước, cuộc Mổ tử thi đã cho thấy những chẩn đoán của Osler là chính xác.

    Vào năm 1910, Abraham Flexner đã báo cáo về tình trạng bi đát trong đào tạo y khoa ở Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Báo cáo của Cabot được thực hiện ở bệnh viện đa khoa Massachusetts vào năm 1920 đã cho thấy những sai sót đáng kinh ngạc trong chẩn đoán của một bộ phận các bác sĩ dựa trên khoảng 3000 ca Mổ tử thi được thực hiện. Kết quả là cuộc cải cách trong ngành y qua đó đặt bộ môn bệnh học Mổ tử thi là một phần quan trọng trong đào tạo y khoa


    BS.Phùng Hoàng Đạo
    Last edited by Suối Mây; 28-01-2010, 05:11 PM.

    Comment

    Working...
    X